Trong tuần qua, giá heo hơi tăng mạnh ở những ngày đầu và bắt đầu chậm lại từ giữa tuần do dịch tả heo Châu Phi tái phát và lây lan rộng tại một số địa phương.
Trong đó, giá heo tuần này tại miền Bắc tăng cao hơn so với tuần trước, nhiều địa phương đạt ở mức 91.0000 - 92.000 đồng/kg, tại miền Nam vẫn đứng yên so với tuần trước. Riêng tại miền Trung, Tây Nguyên giá heo tiếp tục giảm thêm so với tuần trước, có nơi giảm đến 9.000 đồng/kg.
Cách đây 2 ngày trước (26/6), lô 500 con heo thịt do Công ty TNHH Thùy Dương Phát nhập khẩu từ Thái Lan đã thông quan tại Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo về đến Việt Nam. Dự kiến sau thời gian cách ly 5 ngày, 500 con heo này sẽ được giết mổ bán ra thị trường.
Nhờ đó, đã giúp thị trường giá heo hơi trong nước tại các tỉnh thuộc khu vực miền Trung và Nam đã quay đầu giảm trở lại.
Riêng tại phía Bắc, giá heo hơi đang bắt đầu theo xu hướng tăng do bệnh dịch tả heo châu Phi đang bùng phát trở lại tại một số tỉnh thuộc khu vực này. Theo đó, tại tỉnh Lai Châu, dịch tả heo châu Phi đã tái bùng phát tại 4/7 xã, phường thuộc thành phố Lai Châu. Cụ thể là phường Quyết Thắng, phường Đông Phong và xã San Thàng, xã Sùng Phài với tổng số heo mắc bệnh gần 100 con.
Tương tự, theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Bằng, đến ngày 24/6, toàn tỉnh có 138 hộ chăn nuôi, ở 60 xóm, thuộc 33 xã, thị trấn tại 9/10 huyện, thành phố trong tỉnh tái phát dịch tả heo châu Phi. Số heo mắc bệnh, tiêu hủy là 600 con, tổng trọng lượng trên 25 tấn.
Ông Đào Nguyên Phong, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Bằng, cho biết nguyên nhân khiến dịch tái phát và lan rộng là do nguồn cung thịt heo trên địa bàn khan hiếm đẩy giá heo lên cao khiến cho người dân nảy sinh tâm lý tiếc của, không muốn báo cáo chính quyền, lén lút giết mổ, mang heo đi tiêu thụ.
Nước thải giết mổ lại chảy ra môi trường mang mầm bệnh lây lan ra cộng đồng. Mặt khác, việc giám sát, phát hiện, xử lý còn hạn chế nên có trường hợp vứt xác heo chết ra môi trường làm lây lan mầm bệnh.
Từ khóa "thịt heo" đang là tâm điểm thị trường nửa đầu năm nay, đặc biệt trong giai đoạn dịch COVID-19 khi giá liên tục nhảy múa và tăng cao đột biến.
Nguyên nhân theo nhiều chuyên gia là do lo ngại giảm đàn sau đợt dịch tả châu Phi năm 2019, trong khi nhu cầu thịt heo của người Việt Nam ở mức cao đã đẩy giá tiêu thị. Chưa kể, nhu cầu tăng cao giữa mùa dịch, trong khi tái đàn không kịp và nái giảm khiến giá thịt heo liên tục "nhảy múa" tại nhiều khu vực trước áp lực khan hàng.
Trước diễn biến thất thường của giá thịt heo, trong khi đây là mặt hàng thiết yếu, cơ quan chức năng đã vào cuộc điều chỉnh giá. Mặc dù vậy, thông tin nguồn cung trên thị trường đến nay chưa có con số cụ thể, và mặt bằng giá đến nay vẫn không giảm nhiều.
Sự nóng sốt này đang đem về mức lợi nhuận khủng cho các doanh nghiệp trong ngành. Khi mà, mặc dù thị trường thịt heo thăng hoa và có mức tiêu thụ cao, Việt Nam hiện nay chỉ đâu đó 15 doanh nghiệp cung ứng.
Ông Nguyễn Văn Hanh, chủ trang trại chăn nuôi heo tại xã Phúc Lâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội) chia sẻ với Báo Lao Động, hiện nay giá heo hơi tại Thái Lan đã tăng cao, giá heo trong nước giảm nhiều, nhập heo Thái Lan về cho mức lãi không hấp dẫn nên thương nhân không nhập.
Điều này chứng minh là đến thời điểm này, đã cuối tháng 6 nhưng chỉ mới có 500 con heo Thái Lan được giết mổ bán ra thị trường. Nguồn cung chủ yếu vẫn là heo nuôi trong nước.
BẢNG DỰ BÁO GIÁ HEO HƠI NGÀY 29/6/2020 | ||
Tỉnh/thành | Khoảng giá (đồng/kg) | Tăng (+)/giảm (-) đồng/kg |
Hà Nội | 90.000-93.000 | +3.000 |
Hải Dương | 89.000-90;000 | Giữ nguyên |
Thái Bình | 90.000-91.000 | +1.000 |
Bắc Ninh | 88.000-89.000 | Giữ nguyên |
Hà Nam | 90.000-93.000 | +3.000 |
Hưng Yên | 92.000-93.000 | +1.000 |
Nam Định | 90.000-92.000 | +2.000 |
Ninh Bình | 90.000-93.000 | +3.000 |
Hải Phòng | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Quảng Ninh | 90.000-91.000 | Giữ nguyên |
Lào Cai | 90.000-92.000 | +2.000 |
Tuyên Quang | 90.000-91.0000 | Giữ nguyên |
Cao Bằng | 90.000-91.000 | Giữ nguyên |
Bắc Kạn | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Phú Thọ | 90.0000-91.000 | +1.000 |
Thái Nguyên | 90.000-92.000 | +2.000 |
Bắc Giang | 88.000-89.000 | Giữ nguyên |
Vĩnh Phúc | 88.000-89.000 | Giữ nguyên |
Lạng Sơn | 88.000-89.000 | Giữ nguyên |
Lai Châu | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Thanh Hóa | 86.000-87.000 | Giữ nguyên |
Nghệ An | 86.000-87.000 | Giữ nguyên |
Hà Tĩnh | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Quảng Bình | 82.000-83.000 | Giữ nguyên |
Quảng Trị | 77.000-78.000 | Giữ nguyên |
TT-Huế | 77.000-78.000 | Giữ nguyên |
Quảng Nam | 78.000-79.000 | Giữ nguyên |
Quảng Ngãi | 77.000-78.000 | Giữ nguyên |
Bình Định | 77.000-78.000 | Giữ nguyên |
Phú Yên | 78.000-79.000 | Giữ nguyên |
Ninh Thuận | 77.000-78.000 | Giữ nnguyeen |
Khánh Hòa | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Bình Thuận | 76.000-77.000 | Giữ nguyên |
Đắk Lắk | 81.000-82.000 | Giữ nguyên |
Đắk Nông | 80.000-81.000 | Giữ nguyên |
Lâm Đồng | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Gia Lai | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Đồng Nai | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
TP.HCM | 83.000-84.000 | Giữ nguyên |
Bình Dương | 83.000-84.000 | Giữ nguyên |
Bình Phước | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
BR-VT | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Long An | 87.000-88.000 | Giữ nguyên |
Tiền Giang | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Bạc Liêu | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Bến Tre | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Trà Vinh | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Cần Thơ | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Hậu Giang | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Cà Mau | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Vĩnh Long | 84.000-85.000 | -1.000 |
An Giang | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Kiêng Giang | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Sóc Trăng | 83.000-85.000 | Giữ nguyên |
Đồng Tháp | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Tây Ninh | 82.000-83.000 | -1.000 |