Giá cà phê hôm nay
Giá cà phê trong nước hôm nay có chiều hướng tiếp tục giảm so với các ngày trước từ 900 đến 1.000 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay tại tỉnh Gia Lai, Kon Tum đứng ở mức giá 64.000 đồng/kg tiếp tục giảm 900 đồng/kg. Tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê được thu mua với giá cao nhất là 64.700 đồng/kg, Lâm Đồng là 63.900 đồng/kg, Đắk Lắk 64.500 đồng/kg.
Lũy kế 9 tháng đầu tiên của niên vụ hiện tại 2022-2023, xuất khẩu cà phê của nước ta đạt tổng cộng 1,44 triệu tấn (khoảng hơn 24 triệu bao), với kim ngạch 3,38 tỷ USD, tăng 2% về lượng và tăng 6,6% về kim ngạch so với cùng kỳ niên vụ trước.
Trong quý II, giá cà phê liên tục thiết lập kỷ lục, có thới điểm, giá cà phê tăng lên tới 70.000 đồng/kg. Tính đến ngày 30/6, giá cà phê bắt đầu hạ nhiệt xuống 65.200 đồng/kg, tăng 35% so với đầu quý. Nếu so sánh với đầu năm, mức giá này tăng mạnh tới 68%. Đà tăng này vẫn kéo dài đến tháng 7 đạt gần 67.000 đồng/kg.
Lượng hàng xuất khẩu từ nay đến cuối năm có thể giảm khoảng 50% so với cùng kỳ do lượng tồn kho dần cạn, chủ yếu năm trong các nhà xuất khẩu FDI . Đà tăng giá cà phê sẽ chững lại trong thời gian tới dù hàng không còn. Như đã đề cập giá, hiện nay đã ở mức cao và đã phản ánh hết sự thiếu hụt hàng trong thời gian qua.
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe – London sụt giảm liên tiếp phiên thứ sáu. Cụ thể, giá cà phê giao hàng tháng 9/2023 đạt 2.562 USD/tấn, giao cà phê tháng 11/2023 đạt 2.378 USD/tấn; giao cà phê tháng 01/2024 đạt 2.321 USD/tấn và giao cà phê tháng 03/2024 đạt 2.289 USD/tấn. Khối lượng giao dịch rất cao trên mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US – New York kéo dài chuỗi giảm lên phiên thứ bảy. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 giảm thêm 0,35 cent, xuống 148,90 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 12 giảm thêm 0,75 cent, còn 150,60 cent/lb, các mức giảm đáng kể. Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình.
Giá cà phế Robusta trên sàn ICE Europe – London tiếp tục lao dốc mạnh, trong khi đó, đối với cà phê Arabica giảm 1-3 cent/lb so với phiên giao dịch gần nhất.
Giá tiêu hôm nay
Giá tiêu tại thị trường trong nước đang nằm trong khoảng 69.000 - 72.000 đồng/kg sau khi được điều chỉnh giảm nhẹ 500 - 1.000 đồng/kg.
Trong đó, giá tiêu tại khu vực Tây Nguyên vẫn đứng giá quanh mốc 69.000 đồng/kg – 70.000 đồng/kg. Cụ thể, giá tiêu Chư Sê (Gia Lai) hôm nay đang được thương lái thu mua ở mức 69.000 đồng/kg, giữ nguyên giá so với hôm qua. Tương tự giá tiêu Đắklắk hôm nay và giá tiêu tại Đắk Nông cũng ở mức 70.000 đồng/kg, không có biến động so với hôm qua.
Tại khu vực Đông Nam Bộ, giá tiêu hôm nay đồng loạt biến động theo chiều hướng giảm giá 500đồng/kg để dừng lại quanh mốc 70.500 đồng/kg – 71.500 đồng/kg. Trong đó, tại Bà Rịa Vũng Tàu giá tiêu hôm nay giảm xuống 71.500 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg. Còn tại Bình Phước giá tiêu cũng xuống mức 70.500 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg.
Trên thị trường, giá tiêu thế giới hôm nay của các nước đang đi ngang so với phiên giao dịch hôm qua.
Số liệu từ Cộng đồng Hồ tiêu quốc tế (IPC) cập nhật cho thấy, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 3.350 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA giữ mức 4.900 USD/tấn; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn.
Trong khi đó, giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 3.500 USD/tấn với loại 500 g/l, loại 550 g/l mức 3.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 5.100 USD/tấn.
Trên sàn giao dịch Kochi - Ấn Độ giá tiêu nội địa các loại Garbled, Ungarbled, New có giá khớp lần lượt là 61.500 Rupee/100kg, 59.00 Rupee/100kg, 47.800 Rupee/100kg.
Giá tiêu đen xuất khẩu của các nước sản xuất chủ chốt có xu hướng tăng trong nửa đầu năm nay. Tính đến cuối tháng 6, giá tiêu đen 500 g/l và 550 g/l của Việt Nam tăng 12,5 – 12,9% so với đầu năm; Indonesia tăng 3,8%; đặc biệt Brazil tăng tới 34%.
Còn trong nửa đầu tháng 7, giá tiêu đen giữ ổn định ở hầu hết các quốc gia với Việt Nam trong khoảng 3.500 – 3.600 USD/tấn; Indonesia 3.740 USD/tấn.
Riêng tiêu đen của Brazil có giá giảm 9% xuống còn 3.050 USD/tấn. Vụ thu hoạch tiêu chính đã bắt đầu ở bang Espírito Santo, Brazil. Kết quả là giá đã có xu hướng giảm trong những tuần gần đây.
Trên thị trường tiêu trắng, giá tiêu trắng xuất khẩu của Indonesia tăng 2,6% 6 tháng đầu năm và tăng thêm 5% trong nửa đầu tháng 7, lên mức 6.474 USD/tấn.
Còn tại Việt Nam, giá tiêu trắng xuất khẩu tăng 8,7% trong 6 tháng đầu năm và ổn định trong nửa đầu tháng 7 ở mức 5.000 USD/tấn.
Giá cao su hôm nay
Giá cao su trên hai sàn giao dịch TOCOM và SHFE biến động trái chiều với biên độ hơn 0,1%.
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 8/2023 đạt mức 195,4 yen/kg, tăng 0,21% (tương đương 0,4 yen/kg).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 8/2023 được điều chỉnh xuống mức 11.890 nhân dân tệ/tấn, giảm 0,29% (tương đương 35 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó.
Trong các tháng đầu năm 2023, trị giá nhập khẩu cao su của các thị trường lớn đều sụt giảm so với cùng kỳ năm 2022 do giá cao su giảm mạnh.
Theo số liệu của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong quý II/2023, nhập khẩu cao su của nước này đạt 1,97 triệu tấn, trị giá 2,97 tỷ USD, tăng 24,3% về lượng, nhưng giảm 2,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, nhập khẩu cao su của Trung Quốc từ Việt Nam đạt 247,71 nghìn tấn, trị giá 335,36 triệu USD, tăng 24,4% về lượng, nhưng giảm 0,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Thị phần cao su Việt Nam chiếm 12,57% về lượng và chiếm 11,27% về trị giá trong tổng nhập khẩu của Trung Quốc, cao hơn so với cùng kỳ năm 2022.
Trong mấy tháng gần đây, nhập khẩu cao su của Trung Quốc liên tục tăng khi ngành ô tô nước này đang bắt đầu có những tín hiệu tích cực. Trong khi, Chính phủ nước này đang triển khai nhiều chính sách để phục hồi nền kinh tế.
Do đó, trong các tháng cuối năm 2022, dự báo nhập khẩu cao su của thị trường này sẽ tăng trưởng nhẹ.
Tuy nhiên, lạm phát dai dẳng và sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ chậm lại vào năm 2023 là những mối lo ngại lớn có thể ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu thụ cao su, theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương).