Giá cà phê trên thị trường thế giới giảm mạnh
Giá cà phê hôm nay 13/10 giao dịch trong khoảng 46.100 - 46.600 đồng/kg tại thị trường trong nước.
Cụ thể, tại Lâm Đồng là 46.100 đồng/kg, Đắk Lắk: 46.600 đồng/kg, Đắk Nông: 46.400 đồng/kg, Gia Lai: 46.400 đồng/kg, Kon Tum: 46.400 đồng/kg.
Trên thị trường thế giới, kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta tại London giao tháng 11/2022 giảm 24 USD/tấn, giao dịch ở mức 2.142 USD/tấn; giao tháng 1/2023 giảm 19 USD/tấn, giao dịch ở mức 2.141 USD/tấn.
Trong khi đó trên sàn New York, giá cà phê Arabica giao tháng 12/2022 giảm 8,1 cent/lb, giao dịch ở mức 209,75 cent/lb; giao tháng 3/2023 giảm 6,55 cent/lb, giao dịch ở mức 201,4 cent/lb.
Nhận định về triển vọng giá cà phê trong niên vụ 2022-2023, các chuyên gia cho rằng lạm phát tăng cao tại nhiều quốc gia có thể ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ cà phê toàn cầu, nhưng những rủi ro về nguồn cung do biến đổi khí hậu vẫn còn hiện hữu và xu hướng chuyển dịch sang cà phê robusta sẽ mở ra cơ hội đối với cà phê của Việt Nam.
Ông Nguyễn Nam Hải, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam, cho biết thời gian qua, các nước tiêu thụ chính trong đó có Mỹ, Châu Âu, đồng loạt tăng mạnh lãi suất.
Điều này khiến chi phí kinh doanh của những công ty nhập khẩu tăng lên và hoạt động mua hàng cũng trầm lắng. Đây cũng là lý do vì sao hiện lượng tồn kho trong nước vẫn đang thấp nhưng diễn biến lại trái ngược so với giai đoạn tháng 7,8.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, tháng 9/2022, Việt Nam xuất khẩu cà phê đạt 92,55 nghìn tấn, trị giá trên 226 triệu USD, giảm 17,8% về lượng và giảm 15,1% về trị giá so với tháng 8/2022, so với tháng 9/2021 giảm 10,3% về lượng, nhưng tăng 4,9% về trị giá.
Tính chung 9 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt xấp xỉ 1,34 triệu tấn, trị giá 3,06 tỷ USD, tăng 13,1% về lượng và tăng 37% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Tháng 9/2022, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt 2.443 USD/tấn, tăng 3,3% so với tháng 8/2022 và tăng 16,9% so với tháng 9/2021. Tính chung 9 tháng đầu năm 2022, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt mức 2.283 USD/tấn, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Tháng 9/2022 so với tháng 9/2021, lượng cà phê xuất khẩu sang nhiều thị trường chủ lực giảm mạnh như: Đức, Bỉ, Mỹ, Philippines và Algeria. Ngược lại, xuất khẩu cà phê sang Italia, Nhật Bản, Tây Ban Nha và Anh tăng.
9 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021, xuất khẩu cà phê sang các thị trường Italia, Bỉ, Nga, Tây Ban Nha và Anh tăng. Ngược lại, xuất khẩu cà phê sang Đức, Mỹ, Nhật Bản, Philippines và Algeria giảm, theo báo cáo mới nhất từ Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương).
Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam khá phong phú: Đức với 170.336 tấn, kim ngạch 363 triệu USD; Bỉ với 103.024 tấn, kim ngạch gần 219 triệu USD; Italia với 110.631 tấn, kim ngạch 236,47 triệu USD; Hoa Kỳ với 89.147 tấn, kim ngạch 214,2 triệu USD; Nhật Bản với 85.619 tấn, kim ngạch 215,5 triệu USD; Tây Ban Nha với 71.694 tấn, kim ngạch 160,8 triệu USD…
Giá tiêu trong nước có nguy cơ mất mốc 60.000 đồng/kg trong tháng 10
Giá tiêu hôm nay 13/10 giao dịch trong khoảng 60.000 - 62.500 đồng/kg.
Tại tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông là 61.000 đồng/kg, tại Gia Lai: 60.000 đồng/kg, Đồng Nai: 60.500 đồng/kg, Bà Rịa - Vũng Tàu: 62.500 đồng/kg, Bình Phước: 62.000 đồng/kg.
Trong 9 tháng năm 2022 ngành hàng hồ tiêu đạt 774 triệu USD, tăng 7,7% (mặc dù lượng giảm 17,4% nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng do giá xuất khẩu tăng). Trái ngược với con số tích cực đó, thị trường hồ tiêu trong nước những ngày đầu tháng 10/2022 tiếp tục trầm lắng và có nguy cơ tụt dưới mốc quan trọng 60.000 đồng/kg.
Niên vụ 2021 - 2022, nông dân trồng tiêu phấn khởi vì hồ tiêu tăng giá trở lại sau nhiều năm ổn định ở mức thấp. Vài tháng trở lại đây, hồ tiêu có nhiều đợt giảm giá và hiện dao động ở mức 60 - 63 ngàn đồng/kg, giảm hơn 20 ngàn đồng/kg so với thời điểm giá tốt của vụ thu hoạch trước đó. Nguyên nhân, do thị trường xuất khẩu trì trệ, nguồn cầu Trung Quốc sụt giảm mạnh và đồng USD neo ở mức cao kỷ lục.
Đặc biệt, trong vòng 1 tháng qua, giá hồ tiêu trong nước bất ngờ giảm mạnh khiến người trồng lo lắng. Đây được xem là mức thấp nhất kể từ đầu năm 2022 đến nay. Trong bối cảnh vụ thu hoạch mới đang đến gần, tồn kho tăng cao, thị trường thấp như trên có thể gây hệ lụy nguy hiểm đến ngành hàng này trong trung hạn.
Theo ý kiến các chuyên gia, mức giá thấp trong khi chi phí tăng cao khiến cho người nông dân không có lãi. Hệ lụy là họ sẽ không đầu tư cho vụ mới. Nhiều vườn tiêu sẽ bị bỏ hoang, không ai chăm sóc, cây cối sẽ còi cọc, già cỗi, dẫn đến diện tích trồng tiêu trồi sụt. Điều này gây ảnh hưởng đến chính sách phát triển hồ tiêu bền vững của ngành hàng trong trung hạn.
Ngành hồ tiêu Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn như giá bán thấp, thiếu tính bền vững, chưa đáp ứng tốt các yêu cầu đang ngày càng cao hơn của các thị trường. Trong khi đó thị trường trong nước thiếu tính thống nhất, luôn bị "dìm giá" bởi các DN, đại lý lớn.
Thị trường cao su vẫn ảm đạm
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (Tocom), giá cao su kỳ hạn giao tháng 10/2022 ghi nhận mức 221,9 JPY/kg, giảm 4,1 JPY/kg. Các kỳ hạn cao su tháng 11, 12 và 1/2023, 2/2023 đều giảm gần 1%.
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 10/2022 đứng ở mức 11.650 CNY/tấn, giảm 205 CNY/tấn. Các kỳ hạn tháng 11, tháng 1/2023, tháng 3/2023, tháng 4/2023 ở mức giảm hơn 1%.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) ước tính trong tháng 9 xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt khoảng 210 nghìn tấn, trị giá 305 triệu USD, giảm 4,2% về lượng và giảm hơn 8% về trị giá so với tháng 8. Tuy nhiên so với tháng 9/2021 tăng 16% về lượng và tăng 2% về trị giá.
Giá xuất khẩu bình quân trong tháng 9 đạt 1.455 USD/tấn, giảm 4% so với tháng 8 và giảm hơn 12% so với tháng 9/2021.
Lũy kế 9 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu cao su đạt khoảng 1,41 triệu tấn, trị giá 2,32 tỷ USD, tăng 9,7% về lượng và tăng 7,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Trong 8 tháng năm 2022, các chủng loại cao su xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS: 400280), Latex, SVR 3L, SVR 10, RSS3, SVR CV60… Trong đó, hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất, chiếm 56,4% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, với 677,86 nghìn tấn, trị giá gần 1,14 tỷ USD, giảm 1,3% về lượng, nhưng tăng hơn 1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Trong kỳ, xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tới 99,7% tổng lượng hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp xuất khẩu của cả nước, với 676,11 nghìn tấn, trị giá 1,13 tỷ USD, giảm hơn 1% về lượng, nhưng tăng 1,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.