Thị trường tiêu trong nước suy yếu

Thị trường nông sản hôm nay 10/9 ghi nhận giá cà phê tiếp tục xu hướng tăng trong khi giá tiêu bất ngờ lao dốc.

Thị trường cà phê khởi sắc

Giá cà phê trong nước hôm nay dao động từ 48.000 - 48.600 đồng/kg. 

Cụ thể, giá cà phê tại tỉnh Đắk Lắk: 48.600 đồng/kg, Gia Lai và tỉnh Đắk Nông, Kon Tum: 48.500 đồng/kg, Lâm Đồng: 48.000 đồng/kg.

Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London Kỳ hạn giao ngay tháng 11 tăng 38 USD, lên 2.272 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 1/2023 lên 2.255 USD/tấn, các mức tăng khá mạnh. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.

Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn New York cùng xu hướng hồi phục. Kỳ hạn giao ngay tháng 9 tăng 3,85 cent lên 229,70 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 12 tăng 2,85 cent, lên 225,05 cent/lb, các mức tăng đáng kể. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.

Giá tiêu bất ngờ lao dốc - Ảnh 1.

Cà phê dự kiến sẽ giao dịch ở mức 239,33 USd / Lbs vào cuối quý này, theo các mô hình vĩ mô toàn cầu của Trading Economics và kỳ vọng của các nhà phân tích.

Theo Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê trong tháng 8 của cả nước đạt 112,5 nghìn tấn. Lũy kế trong 8 tháng đầu năm nay, nước ta đã xuất khẩu 1,2 triệu tấn, đạt giá trị 2,8 tỷ USD, tăng 15,3% về lượng và 40,4% về giá trị.

Với đà tăng trưởng này, mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 3 tỷ USD trong năm nay được dự báo sẽ sớm đạt được. Thậm chí, ngành cà phê Việt Nam trong năm nay có thể sẽ thiết lập kim ngạch kỷ lục 4 tỷ USD nếu giá xuất khẩu tiếp tục ở mức cao.

Tính chung 8 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam ước đạt 1,24 triệu tấn, trị giá 2,82 tỷ USD, tăng 14,7% về lượng và tăng 39,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Dự kiến, hết tháng 9, kim ngạch xuất khẩu cà phê sẽ vượt mức 3,07 tỷ USD thực hiện trong cả năm ngoái.

Vừa qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho phép giống cà phê dây bản địa của xã Thuận An (huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông) được lưu hành đặc cách. Đây là bước tiến mới trong phát triển giống của Đắk Nông, tạo động lực để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm cà phê. 

Cà phê dây có nhiều ưu điểm như năng suất cao (trung bình 6-8 tấn/ha), chống chọi sâu bệnh tốt, có khả năng chịu hạn trong thời gian dài, nhân to, chậm thoái hóa... Việc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận lưu hành đặc cách giống cà phê dây Thuận An là cơ hội lớn cho Đắk Nông trong quá trình nâng cao hiệu quả ngành hàng cà phê.

Giá tiêu lao dốc

Giá tiêu hôm nay lao dốc từ 500-1.000 đồng/kg và giá cao nhất ở ngưỡng 69.000 đồng/kg được ghi nhận ở Bà Rịa - Vũng Tàu, thấp nhất 66.000 đồng/kg tại Gia Lai.

Giá tiêu tại Đắk Nông (Gia Nghĩa) và Đắk Lắk (Ea H'leo): 67.000 đồng/kg, Bình Phước: 67.500 đồng/kg, Đồng Nai: 66.5000đồng/kg.

Giá tiêu bất ngờ lao dốc - Ảnh 2.

Thống kê bộ sơ bộ của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam - VPA, trong tháng 8/2022 Việt Nam xuất khẩu được 18.954 tấn hồ tiêu, trong đó tiêu đen đạt 16.970 tấn, tiêu trắng đạt 1.984 tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 77,6 triệu USD, tiêu đen đạt 66,3 triệu USD, tiêu trắng đạt 11,3 triệu USD.

So với tháng 7, lượng xuất khẩu tăng 1,8% tuy nhiên kim ngạch giảm 1,2%. Olam tiếp tục là doanh nghiệp đứng đầu xuất khẩu trong tháng 8 đạt 2.497 tấn, tiếp theo là các doanh nghiệp Trân Châu, Nedspice, Phúc Sinh, Haprosimex… Mỹ là thị trường nhập khẩu hồ tiêu nhiều nhất trong tháng đạt 4.715 tấn. Đáng chú ý lượng nhập khẩu của Trung Quốc tăng 133% so với tháng trước đạt 2.859 tấn.

Lũy tiến từ đầu năm đến hết tháng 8/2022, Việt Nam xuất khẩu được 163.130 tấn hồ tiêu các loại, tiêu đen đạt 140.221 tấn, tiêu trắng đạt 22.909 tấn. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 725 triệu USD, tiêu đen đạt 589,3 triệu USD, tiêu trắng đạt 135,7 triệu USD. So với cùng kỳ năm ngoái lượng xuất khẩu giảm 18,3% tương đương 36.638 tấn (tiêu đen giảm 37.410 tấn, tiêu trắng tăng 772 tấn), kim ngạch xuất khẩu tăng 9% tương đương 59,9 triệu USD.

8 tháng qua, thị trường Mỹ nhập khẩu 37.560 tấn, giảm 13,8% so với cùng kỳ. Tính chung cả khu vực châu Mỹ nhập khẩu giảm 13,7%. Xuất khẩu sang châu Âu giảm 11,9% và giảm hầu hết ở các thị trường lớn Đức, Hà Lan, Anh, Nga, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ.

Tại khu vực châu Á, xuất khẩu tăng ở một số thị trường quan trọng như UAE, Ấn Độ, Singapore, Hàn Quốc, Philippine, Nhật Bản tuy nhiên lại giảm mạnh ở Trung Quốc (giảm 72,6% còn 9.695 tấn so với lượng nhập khẩu 35.444 tấn cùng kỳ) nên kéo theo cả khu vực giảm 23,2%. Ai Cập vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam ở Châu Phi đạt 2.110 tấn, tuy nhiên so cùng kỳ nhập khẩu của Ai Cập giảm 51,4%. Tính chung cả khu vực châu Phi xuất khẩu giảm 20,7%. Các thị trường nhập khẩu tiêu trắng chủ yếu: Mỹ: 3.664 tấn, Đức: 3.188 tấn, Hà Lan: 2.263 tấn, Thái Lan: 1.541 tấn, Trung Quốc: 1.393 tấn.

Thị trường cao su biến động trái chiều

Giá cao su hôm nay trái chiều tại thị trường châu Á. Lượng xuất khẩu cao su tháng 8 tăng gần 7%, mang về thêm 320 triệu USD.

Tại Sở giao dịch hàng hóa Osaka (OSE), giá cao su chiều ngày 9/9/2022, lúc 11h30, kỳ hạn tháng 9/2022, tăng mạnh lên mức 220,2 JPY/kg, tăng mạnh 1,4 JPY/kg, tương đương 0,64%.

Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn Thượng Hải giảm mạnh 85, ghi nhận mức 11.440 CNY/tấn, tương đương 0,74%.

Giá cao su tại Nhật Bản duy trì ổn định trong bối cảnh đồng JPY suy yếu hỗ trợ giá tăng, song giá cao su tại Thượng Hải giảm gây áp lực giảm.

Hợp đồng cao su giao tháng trước trên nền tảng SICOM của Sàn giao dịch Singapore giao tháng 10 STFc1 giao dịch lần cuối ở mức 129,2 US cent / kg, giảm 0,4%.

Giá tiêu bất ngờ lao dốc - Ảnh 3.

Cao su giảm 46,90 US Cents / kg hay 26,30% kể từ đầu năm 2022, theo giao dịch trên hợp đồng chênh lệch (CFD) theo dõi thị trường chuẩn cho mặt hàng này.

Xuất khẩu cao su trong tháng 8 đạt khoảng 210 nghìn tấn, trị giá 320 triệu USD, nhờ đó, lũy kế 8 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu cao su đạt gần 1,2 triệu tấn, trị giá 2 tỷ USD, tăng 7,8% về lượng và tăng hơn 8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) ước tính xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 8 đạt khoảng 210 nghìn tấn, trị giá 320 triệu USD, tăng gần 7% về lượng và tăng nhẹ 0,3% về trị giá so với tháng 7, còn so với tháng 8/2021 tăng 11% về lượng và tăng 3% về trị giá.

Giá xuất khẩu bình quân cao su trong tháng 8 đạt 1.523 USD/tấn, giảm 6,2% so với tháng trước đó và giảm 7,2% so với tháng 8/2021.

Lũy kế 8 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu cao su đạt gần 1,2 triệu tấn, trị giá 2 tỷ USD, tăng 7,8% về lượng và tăng hơn 8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Cũng theo Cục Xuất nhập khẩu, trong 7 tháng đầu năm 2022, các chủng loại cao su xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280), Latex, SVR 10, SVR 3L, SVR CV60, RSS3…

Hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp vẫn là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất, chiếm 56% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, với gần 550,5 nghìn tấn, trị giá 939,2 triệu USD, giảm 2,7% về lượng, nhưng tăng 1,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tới 99,72% tổng lượng hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp xuất khẩu của cả nước, với gần 549 nghìn tấn, trị giá 935,6 triệu USD, giảm 2,5% về lượng, nhưng tăng 1,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Trong 7 tháng đầu năm 2022, nhiều chủng loại cao su xuất khẩu đã tăng mạnh cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2021, trong đó đáng chú ý như: cao su tổng hợp, Latex, SVR 20, SVR 10, cao su hỗn hợp (HS 4005), RSS3, SVR 3L, cao su tái sinh...

Về giá xuất khẩu, trong 7 tháng đầu năm 2022, giá xuất khẩu bình quân một số chủng loại cao su tăng so với cùng kỳ năm 2021 như hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280), SVR 10, cao su tổng hợp, SVR 20, SVR 5…

HÀ MY