Việc xử lý “cục máu đông” nợ xấu không dễ nếu không nhận diện và có giải pháp ngăn chặn các yếu tố đầu nguồn

Việc xử lý “cục máu đông” nợ xấu không dễ nếu không nhận diện và có giải pháp ngăn chặn các yếu tố đầu nguồn. Thực tế, để xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu của các tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2016 - 2020, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng, trình Quốc hội thông qua Nghị quyết số 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. 

Ngân hàng Nhà nước cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 kèm theo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn liền với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020”.

Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 về việc thực hiện Nghị quyết số 42 để thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Thông tư số 09/2017/TT-NHNN ngày 14/8/2017 về mua - bán và xử lý nợ xấu của VAMC để hướng dẫn Điều 6 Nghị quyết số 42.

Trải qua gần 5 năm đi vào thực tiễn, các giải pháp nêu tại Nghị quyết số 42 đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong việc xử lý “cục máu đông” nợ xấu và góp phần quan trọng vào kết quả của việc cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020.

Số liệu được công bố cho thấy, tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý từ 15/8/2017 đến 31/12/2021 đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn khoảng 2,15 nghìn tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình từ năm 2012 - 2017, hệ thống các tổ chức tín dụng xử lý được khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng).

Kể từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, xử lý nợ xấu nội bảng thông qua hình thức khách hàng trả nợ tăng cao, từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 148,0 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,93% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý), cao hơn nhiều so với tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng trả trung bình năm từ 2012 - 2017 nợ/tổng nợ xấu là khoảng 22,8%).

Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 42, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV từng nêu rõ: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoan nghênh sự chủ động của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trong việc đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42 bên cạnh việc đánh giá hàng năm theo quy định tại khoản 3 điều 19 của nghị quyết này... Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao những cố gắng của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành trung ương và địa phương, đặc biệt là các tổ chức tín dụng trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 42 trong thời gian qua đã đạt những kết quả rất tích cực. Tỷ lệ nợ xấu giảm, chất lượng tín dụng được cải thiện chứng tỏ sự đúng đắn, hiệu quả của việc thực hiện Nghị quyết...”.

Nghị quyết số 42 là nghị quyết thí điểm nên hiệu lực chỉ kéo dài 5 năm và đến ngày 15/8/2022 nghị quyết sẽ hết hiệu lực thi hành. Khi hết hiệu lực thi hành, toàn bộ cơ chế về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đang được thực hiện sẽ chấm dứt, việc xử lý “cục máu đông” nợ xấu của tổ chức tín dụng sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan, không được ưu tiên áp dụng một số chính sách được quy định tại Nghị quyết số 42. Điều này sẽ tác động lớn đến quá trình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, VAMC, cũng như quá trình cơ cấu lại tổ chức tín dụng, đặc biệt trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19.

Đồng thời, việc đứt quãng hành lang pháp lý cũng không khuyến khích, huy động được các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia cơ cấu lại các tổ chức tín dụng.

Do đó, để tiếp tục nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng và để có thêm thời gian kiểm chứng thực tiễn chính sách, giải pháp tại Nghị quyết số 42 nhằm nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu cũng như tài sản bảo đảm, pháp luật về xử lý nợ xấu cần được triển khai.

Tổng Hợp