Có nên bơm tiền, việc bơm tiền cần như thế nào, bao nhiêu là đủ, làm sao để hiệu quả và tránh hệ lụy được giới chuyên gia quan tâm. Nhấn mạnh việc cần "bơm", nhưng bơm thế nào để không tạo hệ lụy cần được tính toán hết sức thận trọng,...
Trong một hội nghị tham vấn về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một chuyên gia kinh tế kỳ cựu thẳng thắn đứng lên nêu quan điểm, phải chi mạnh tay để cứu nền kinh tế. Không chi, theo vị này, là có tội với doanh nghiệp, có tội với đất nước. Đề cập đến yếu tố quan trọng trong việc hỗ trợ phục hồi kinh tế là dư địa chính sách, vị chuyên gia cho biết hiện nay có nhiều điều kiện đã tốt hơn nhiều so với đợt khủng khoảng hơn 10 năm trước như lạm phát thấp, cán cân đối ngoại tốt, dự trữ ngoại tệ cao…
Tuy nhiên, một số người lại đang lo ngại năng lực tài chính quốc gia liệu còn đủ dư địa cho quy mô lớn không. Bởi thực tế ngân sách đã rất tiêu tốn trong 2 năm qua để thực hiện chiến lược "Zero Covid". Phục hồi phải đi kèm với ổn định nền kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Dư địa tài khóa và tiền tệ hiện nay rất hạn hẹp để tung ra một gói hỗ trợ có quy mô quá lớn. Cụ thể, về dư địa tiền tệ, dù lạm phát 10 tháng qua ở mức thấp (chỉ tăng 1,81%) song nguy cơ lạm phát cao trong thời gian tới là rất rõ ràng. Lạm phát tăng sẽ khiến lãi suất tăng theo.
Theo ông Nguyễn Đức Kiên - Tổ trưởng Tổ tư vấn của Thủ tướng - cho hay, việc hỗ trợ là cần thiết nhưng theo hình thức nào thì cũng nên được bàn luận kỹ. Có ý kiến cho rằng có thể chi mạnh tay, chấp nhận bội chi, phát tiền cho người dân để tăng cầu… Tuy nhiên tất cả những vấn đề đó cần được xem xét trong mối các cân đối lớn của nền kinh tế.
Nói đến quy mô độ lớn gói hỗ trợ, ông Kiên cho biết, đến nay vẫn chưa chốt. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với một số bộ ngành Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước… dự kiến kinh phí, phương án huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực để hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế. "Xác định gói kích thích kinh tế trong điều kiện đặc biệt thì cần có những quyết sách đặc biệt. Tuy nhiên, đây là việc rất lớn, tác động sâu rộng, kéo dài. Do vậy tôi cho rằng các chính sách đưa ra cần thận trọng, đồng ý là quyết liệt nhưng không làm bằng mọi giá", ông Kiên nhấn mạnh.
Thêm nữa theo ông Kiên, sẽ đưa tiền vào nền kinh tế bằng cách nào. Nền kinh tế có hấp thụ được không, doanh nghiệp có hấp thụ được không, rồi ai chịu trách nhiệm khi gói hỗ trợ không hiệu quả. Nếu không thu hồi được thì thành nợ xấu. Đó là những vấn đề cần đặt ra. Gói kích cầu giai đoạn 2009 đã để lại nhiều bài học.
Nhìn vào con số nợ công của năm 2021 và chuẩn bị cho năm 2022, dư nợ công khoảng 44% GDP - chúng ta nhìn thì thấy tương đối thấp. Tuy nhiên, vào cuối năm, chúng ta điều chỉnh GDP tăng hơn 1 triệu tỷ đồng (tương đương mức tăng 25%). Nước ta nợ công tăng đều và liên tục qua các năm. Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng nợ bình quân là 18,1%/năm. Nhận thức được điều đó, đến giai đoạn 2016-2020, Quốc hội, Chính phủ đặt ra mục tiêu ưu tiên kiểm soát nợ công để đảm bảo an ninh tài chính cũng như các cân đối vĩ mô. Do vậy tốc độ tăng bình quân vừa qua được rút xuống còn trên 6,54%.
Nếu Chính phủ cố ép lãi suất, tăng bơm tiền ra nền kinh tế, tiền chưa chắc đến được khu vực sản xuất kinh doanh mà nhiều khả năng sẽ chảy sang các kênh tài sản, kích thích đầu cơ. Bên cạnh đó, nền kinh tế sau 2 năm dịch bệnh khiến doanh nghiệp như vừa trải qua cơn ốm, liệu có đủ sức để hấp thụ một lượng vốn lớn tung ra, hay ngược lại càng bơm tiền mạnh, bong bóng tài sản càng phình to? Bài học giai đoạn trước đã có.
Nhật Hạ
(Tổng Hợp)