Trong tuần qua, giá heo hơi giảm trở lại tại khu vực phía Bắc, có nơi về dưới mốc 89.000 đồng/kg, trong khi đó tại khu vực miền Trung và Nam liên tục tăng trung bình từ 1.000-4.000 đồng/kg. Đáng chú ý, giá heo tại Bình Thuận đã tăng 13.000 đồng/kg so với tuần trước, hiện giao dịch ở 93.000 đồng/kg đây cũng là mức cao nhất cả nước.
Hiện tại, giá heo các địa phương ở miền Bắc đang bán ở mức 88.0000 - 89.000 đồng/kg, tại miền Trung từ 81.000 - 93.000 đồng/kg, miền Nam từ 84.000 - 92.000 đồng/kg.
Nguyên nhân giá heo hơi tăng trở lại và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt do việc nhập khẩu heo từ Thái Lan về Việt Nam còn nhỏ giọt.
Theo đó, ngày 8/7, ông Nguyễn Hữu Thắng chủ trang trại Đồng Hiệp, thành viên Công ty Thùy Dương Phát chia sẻ với Báo Người Lao Động, doanh nghiệp (DN) đầu tiên nhập khẩu heo thịt Thái Lan ở phía Nam, cho biết hiện trang trại đang bỏ trống vì chưa có heo về.
Ngày 26/6, lô heo thịt 500 con đầu tiên của công ty nhập khẩu về đã được xuất bán xong vào ngày 2/7 nhưng lo tiếp theo đang bị chậm so với kế hoạch. Dự kiến, từ 3 đến 4 ngày tới công ty sẽ nhập 1.000 con heo Thái Lan cung cấp cho thị trường nhưng đang vướng thủ tục ở nước trung gian.
Nhập heo sống rất khó khăn, trong khi Việt Nam và Thái Lan không chung biên giới. Heo đưa từ Thái Lan qua Lào phải kiểm tra từng con rồi sang xe; đến Việt Nam lại kiểm tra, sang xe nên rất mất thời gian, nhân lực và chi phí.
Nguồn cung heo của Thái Lan cũng hạn chế vì chỉ một số trang trại mới được phép xuất khẩu heo sang Việt Nam, trong khi nhu cầu của DN Việt Nam thì lớn", ông Thắng phân tích.
Từ ngày 11/6 đến 15/6, Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, qua đàm phán với Cục Thú y Thái Lan đã công nhận 13 trang trại/công ty của Thái Lan đủ điều kiện an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm để xuất khẩu heo sống sang Việt Nam.
"Tính đến ngày 5/7, đã có 30 lượt DN Việt Nam đăng ký kiểm dịch nhập khẩu gần 4,5 triệu con heo sống từ 13 công ty xuất khẩu của Thái Lan. Trong đó, đã có 7 DN của Việt Nam nhập khẩu gần 9.000 con heo sống từ Thái Lan và đang tiếp tục nhập khẩu nhiều lô heo mới", Cục Thú y chia sẻ với Người Lao Động.
Bên cạnh đó, tại Miền Nam đã có nơi tái bùng phát dịch tả heo châu Phi có thể khiến giá heo hơi tuần tới tiếp tục tăng.
Cụ thể, một hộ chăn nuôi heo quy mô lớn ở Vĩnh Long phải tiêu hủy 39 con heo, gần phân nửa đàn, vì có 4 con bị chết do dương tính với dịch tả heo châu Phi.
Ngay khi có kết quả mẫu bệnh phẩm dương tính, đoàn công tác đã đến tiêu hủy thêm 39 con heo có dấu hiệu nhiễm bệnh được nuôi chung chuồng 4 con đã chết; đồng thời thực hiện khử trùng khu vực chăn nuôi, theo dõi 54 con heo còn lại nuôi khác chuồng.
Ngay khi có kết quả mẫu bệnh phẩm dương tính với dịch tả heo châu Phi, đoàn công tác đã đến tiêu hủy thêm 39 con heo có dấu hiệu nhiễm bệnh được nuôi chung chuồng 4 con đã chết; đồng thời thực hiện khử trùng khu vực chăn nuôi, theo dõi 54 con heo còn lại nuôi khác chuồng, theo báo Công An.
Ngoài ra, trước câu hỏi nông dân trên cả nước đang có nhu cầu tái đàn rất lớn, nhưng gặp khó khăn do giá con giống quá cao, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT chia sẻ, hiện chúng ta vẫn giữ được đàn heo giống gồm 120.000 con.
Ngoài ra còn có 2,8 triệu con heo nái. Do đó, theo tính toán, sẽ có khoảng 11 triệu con heo giống được cung ứng cho thị trường tái đàn vào quý 4 năm nay. Đây là điểm cốt lõi để khôi phục lại đàn heo của cả nước.
Song Bộ trưởng Bộ NN-PTNT cũng đề nghị do hầu hết các đàn heo giống đều nằm trong tay các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, để đẩy nhanh tốc độ tái đàn (cả ở các hợp tác xã và nông hộ nhỏ), các doanh nghiệp, các trang trại lớn cần đẩy mạnh phát triển đàn heo giống, bán heo giống cho các nông hộ. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng phải đẩy mạnh hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ vốn cho người chăn nuôi.
BẢNG GIÁ HEO HƠI DỰ BÁO NGÀY 13/7/2020 | ||
Tỉnh/thành | Khoảng giá (đồng/kg) | Tăng (+)/giảm (-) đồng/kg |
Hà Nội | 90.000-91.000 | Giữ nguyên |
Hải Dương | 89.000-90;000 | Giữ nguyên |
Thái Bình | 91.000-93.000 | Giữ nguyên |
Bắc Ninh | 88.000-89.000 | Giữ nguyên |
Hà Nam | 90.000-92.000 | Giữ nguyên |
Hưng Yên | 90.000-91.000 | +1.000 |
Nam Định | 91.000-92.000 | +2.000 |
Ninh Bình | 92.000-93.000 | Giữ nguyên |
Hải Phòng | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Quảng Ninh | 90.000-91.000 | +1.000 |
Lào Cai | 90.000-92.000 | Giữ nguyên |
Tuyên Quang | 90.000-91.0000 | Giữ nguyên |
Cao Bằng | 90.000-91.000 | Giữ nguyên |
Bắc Kạn | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Phú Thọ | 90.000-91.000 | Giữ nguyên |
Thái Nguyên | 90.000-91.000 | +1.000 |
Bắc Giang | 90.000-91.000 | Giữ nguyên |
Vĩnh Phúc | 90.000-91.000 | Giữ nguyên |
Lạng Sơn | 90.000-91.000 | +1.000 |
Lai Châu | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Thanh Hóa | 86.000-87.000 | Giữ nguyên |
Nghệ An | 88.000-90.000 | Giữ nguyên |
Hà Tĩnh | 86.000-87.000 | +2.000 |
Quảng Bình | 80.000-82.000 | Giữ nguyên |
Quảng Trị | 80.000-81.000 | Giữ nguyên |
TT-Huế | 81.000-82.000 | Giữ nguyên |
Quảng Nam | 82.000-83.000 | Giữ nguyên |
Quảng Ngãi | 80.000-81.000 | Giữ nguyên |
Bình Định | 83.000-84.000 | Giữ nguyên |
Phú Yên | 81.000-82.000 | Giữ nguyên |
Ninh Thuận | 86.000-87.000 | +2.000 |
Khánh Hòa | 86.000-87.000 | +2.000 |
Bình Thuận | 92.000-93.000 | Giữ nguyên |
Đắk Lắk | 81.000-82.000 | Giữ nguyên |
Đắk Nông | 80.000-81.000 | Giữ nguyên |
Lâm Đồng | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Gia Lai | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Đồng Nai | 90.000-92.000 | Giữ nguyên |
TP.HCM | 87.000-88.000 | +1.000 |
Bình Dương | 83.000-85.000 | +2.000 |
Bình Phước | 84.000-85.000 | +2.000 |
BR-VT | 84.000-85.000 | +2.000 |
Long An | 88.000-89.000 | +1.000 |
Tiền Giang | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Bạc Liêu | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Bến Tre | 88.000-89.000 | +1.000 |
Trà Vinh | 89.000-90.000 | Giữ nguyên |
Cần Thơ | 86.000-87.000 | Giữ nguyên |
Hậu Giang | 87.000-88.000 | +2.000 |
Cà Mau | 84.000-85.000 | Giữ nguyên |
Vĩnh Long | 87.000-88.000 | +2.000 |
An Giang | 84.000-85.000 | +1.000 |
Kiêng Giang | 85.000-86.000 | Giữ nguyên |
Sóc Trăng | 87.000-88.000 | +2.000 |
Đồng Tháp | 86.000-87.000 | +1.000 |
Tây Ninh | 88.000-89.000 | Giữ nguyên |