Thị trường cà phê thế giới phục hồi sau chuỗi ngày ảm đạm

Thị trường nông sản hôm nay 23/11 ghi nhận giá cà phê thế giới đảo chiều tăng trong khi đó giá cao su biến động trái chiều trên các sản giao dịch châu Á.

Giá cà phê thế giới đảo chiều tăng trở lại

Giá cà phê trong nước hôm nay 23/11 dao động ở mức từ 39.100 – 39.600 đồng/kg. 

Cụ thể, tại tỉnh Gia Lai là 39.400 đồng/kg, Kon Tum: 39.500 đồng/kg, Đắk Nông, tỉnh Đắk Lắk: 39.600 đồng/kg, Lâm Đồng: 39.100 đồng/kg.

Trên thị trường thế giới, kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta trên sàn London đảo chiều tăng trở lại. Kỳ hạn giao ngay tháng 1/2023 tăng 17 USD, lên 1.829 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 3/2023 tăng 12 USD, lên 1.800 USD/tấn. 

Trên sàn New York, giá cà phê Arabica kỳ hạn giao ngay tháng 12 tăng 3,25 USD cent, lên 163,65 US cent/lb và kỳ hạn giao tháng 3/2023 tăng thêm 3,15 US cent, giao dịch ở mức 163,9 US cent/lb.

Thị trường nông sản 23/11: Giá cà phê, cao su tăng, hồ tiêu đi ngang - Ảnh 1.

Giá cà phê arabica kỳ hạn trên sàn ICE kéo dài mức lỗ lên 1,54 USD/pound, chạm mức thấp nhất trong 16 tháng, do triển vọng nguồn cung toàn cầu vẫn thuận lợi trong khi nhu cầu suy yếu trong bối cảnh suy thoái kinh tế.

Việt Nam đang bước vào thời điểm thu hoạch cà phê. Ghi nhận tại các tỉnh trong khu vực, năm nay, cà phê được mùa, tăng cả về số lượng và chất lượng. Tỷ lệ cà phê chín khi thu hái của nông dân Tây Nguyên đạt khoảng 85%. Đáng chú ý, tỷ lệ cà phê chín hơn 90% thậm chí là đến 93% không còn là hiện tượng cá biệt trong vụ cà phê này.

Nguồn cung dồi dào nên việc giá cà phê biến động theo hướng giảm cũng không gây nhiều bất ngờ. Bên cạnh đó, chịu ảnh hưởng của giá cà phê thế giới biến động theo chiều hướng giảm giá là chủ đạo càng làm sâu hơn khả năng giảm giá của cà phê trong nước.

Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê của Việt Nam tháng 10/2022 đạt 79,83 nghìn tấn, trị giá 206,85 triệu USD.

So với tháng 9/220 đang giảm 13,7% về lượng và giảm 8,5% về trị giá. Và giảm 19,6% về lượng và giảm 4,8% về trị giá so với tháng 10/2021.

Tính chung 10 tháng năm 2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt xấp xỉ 1,42 triệu tấn, trị giá 3,28 tỷ USD, tăng 10,8% về lượng và tăng 33,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Xuất khẩu tiêu trong 17 ngày đầu tháng 11 đạt 32,6 triệu USD

Giá tiêu trong nước hôm nay 23/11 tại Gia Lai là 58.000 đồng/kg; tại Đắk Lắk, Đắk Nông: 59.500 đồng/kg, Đồng Nai, Bình Phước: 60.500 đồng/kg, Bà Rịa - Vũng Tàu: 61.500 đồng/kg.

Trên thị trường thế giới, giá tiêu đen Lampung (Indonesia) giao dịch ở mức  3.784 USD/tấn; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 là 2.575 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA ở mức 5.100 USD/tấn. 

Giá tiêu trắng Muntok lgiao dịch ở mức 5.960 USD/tấn sau khi tăng 1,09%; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn. Tại Việt Nam, giá tiêu đen giao dịch ở 3.100 - 3.200 USD/tấn với loại 500 g/l và 550g/l; giá tiêu trắng ở mức 4.550 USD/tấn.

Thị trường nông sản 23/11: Giá cà phê, cao su tăng, hồ tiêu đi ngang - Ảnh 2.

Theo Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, 17 ngày đầu tháng 11 năm 2022, Việt Nam đã xuất khẩu 9.164 tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 32,6 triệu USD. Đáng chú ý nhập khẩu Trung Quốc 17 ngày đầu tháng 11 đạt 2.268 tấn, chiếm 24,7% tổng lượng xuất khẩu hồ tiêu Việt Nam.

Ở chiều ngược lại, 17 ngày đầu tháng 11 năm 2022, Việt Nam đã nhập khẩu 2.498 tấn trong đó tiêu đen đạt 2.306 tấn, tiêu trắng đạt 192 tấn, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 9,1 triệu USD.

Hiện tại, thị trường Ấn Độ đang chứng kiến nhu cầu yếu ớt sau mùa lễ hội. Riêng nhu cầu về tiêu xanh để sử dụng làm dưa chua đang khá phổ biến. Loại tiêu này đang được bán với giá 130 rupee/kg.

Có ý kiến lo ngại rằng, sản lượng hồ tiêu năm nay có khả năng giảm khoảng 20% do điều kiện khí hậu thất thường. Nhưng thực tế, tiêu năm nay chín nhanh hơn so với hai vụ trước do thời tiết thuận lợi hơn - nếu so với mùa mưa hai năm trước.

Xuất khẩu tiêu trong tháng 10/2022 đạt 17.596 tấn tiêu các loại, tăng 3.732 tấn, tức tăng 26,92 % so với tháng trước và tăng 938 tấn, tức tăng 5,63% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tình hình xuất khẩu có chiều hướng tích cực, nhất là thị trường Trung Quốc.

Thị trường cao su biến động trái chiều

Giá cao su hôm nay 23/11 tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (Tocom), giá cao su kỳ hạn giao tháng 12/2022 ghi nhận mức 215,2 JPY/kg, tăng 1,6 JPY/kg, kỳ hạn cao su tháng 12/2022 giảm 1,41%; kỳ hạn tháng 1/2023, tháng 2/2023, tháng 3/2023 tăng từ hơn 1% đến hơn 2%.

Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 1/2023 giao dịch ở mức 12.795 CNY/tấn, tăng 350 CNY/tấn.

Giá cao su Thượng Hải hôm nay giảm mạnh ở các kỳ hạn tháng 3/2023, tháng 4/2023, tháng 5/2023, tháng 6/2023 ở mức giảm gần 3%.

Thị trường nông sản 23/11: Giá cà phê, cao su tăng, hồ tiêu đi ngang - Ảnh 3.

Cao su kỳ hạn giao dịch quanh mốc 1,2 USD/kg, gần với mức chưa từng thấy kể từ tháng 7 năm 2020 và hiện giảm hơn 20% kể từ đầu năm trong bối cảnh lo ngại về cung vượt cầu và suy thoái kinh tế toàn cầu do nhu cầu thắt chặt mạnh mẽ từ các chính các ngân hàng trung ương.

Thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết, trong quý III/2022, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 609,17 nghìn tấn, trị giá 930,86 triệu USD, tăng 6% về lượng, nhưng giảm 1,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.

Lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam trong quý III/2022 tiếp tục tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2021 nhờ nhu cầu tiêu thụ cao su toàn cầu phục hồi, tuy nhiên trị giá vẫn giảm do giá cao su giảm mạnh.

Về thị trường xuất khẩu, trong quý III/2022, xuất khẩu cao su của Việt Nam sang phần lớn các thị trường đều tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ cao su của Việt Nam, với 453,06 nghìn tấn, trị giá 669,14 triệu USD, tăng 10,4% về lượng và tăng 0,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 70,2% trong tổng trị giá xuất khẩu cao su của cả nước.

Đứng thứ hai là xuất khẩu sang Ấn Độ với 42,04 nghìn tấn, trị giá 69,64 triệu USD, tăng 25,1% về lượng và tăng 18,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 6,2% trong tổng trị giá xuất khẩu cao su của cả nước trong quý 3/2022.

Về giá xuất khẩu, trong quý III/2022, giá xuất khẩu bình quân hầu hết các chủng loại cao su đều trong xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2021, trong đó đáng chú ý như: Hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp giảm 5,5%; Latex giảm 6%; SVR 3L giảm 7,1%; SVR10 giảm 5,9%; RSS3 giảm 7,1%; SVRCV60 giảm 8,2%; RSS1 giảm 10,6%...

Tại thị trường trong nước, quý III/2022, giá cao su nguyên liệu trong nước có xu hướng giảm với mức giảm khoảng 40-50 đồng/độ mủ so với cuối quý III/2022.

Riêng trong tháng 10/2022, giá mủ cao su nguyên liệu biến động nhẹ. Tại Bình Phước, Công ty cao su Phú Riềng thu mua mủ nguyên liệu ở mức 270-285 đồng/độ mủ, tăng 10-15 đồng/độ mủ so với cuối tháng 9/2022. Tại Bình Dương, Công ty cao su Phước Hòa thu mua mủ nguyên liệu ở mức 273-275 đồng/ độ mủ, ổn định so với cuối tháng trước. Tại Gia Lai, Công ty cao su Mang Yang thu mua với giá 230-240 đồng/độ mủ, giảm 10 đồng/ độ mủ so với cuối tháng 9/2022.

Cục Xuất nhập khẩu nhận định, trong quý IV/2022, xuất khẩu cao su của Việt Nam vẫn gặp khó khăn do đồng USD đã bước vào chu kỳ tăng giá như một tài sản trú ẩn trước lạm phát. Vì các loại hàng hóa cơ bản được tính bằng USD, nên khi USD tăng mạnh sẽ sẽ hạ giá trị các loại hàng hóa này. Cao su cũng không ngoại lệ khi giá mủ có diễn biến giảm trong giai đoạn đồng USD tăng mạnh.

Mặt khác, rủi ro của ngành cao su là mưa lớn kéo dài vào vụ cao điểm nên ảnh hưởng đến sản lượng mủ thu hoạch. Hiện tượng La Nina tiếp diễn năm thứ 3 liên tiếp trong 2022 làm gia tăng tần suất và lượng mưa, qua đó tác động tiêu cực đến hoạt động thu hoạch và sản lượng mủ cao su của các doanh nghiệp.

HÀ MY