Mới đây, ông Chu Phú Mỹ, Giám đốc Sở NN&PTNT TP Hà Nội cho biết, giá heo tại Hà Nội đang tăng cao, dao động ở mức 88.000-91.000 đồng/kg heo hơi. Đây là mức giá được tổng hợp từ các lò mổ.
"Ba ngày nay, giá heo tại Hà Nội tăng liên tục. Mỗi ngày tăng thêm hai, ba giá. Ngày 1/3 thì giá heo ở mức 86.000 đồng/kg, ngày 2/3 giá tăng lên 88.000 đồng/kg. Hôm nay ở mức 90.000 đồng/kg", ông Nguyễn Trọng Long, Giám đốc Hợp tác xã Hoàng Long (Thanh Oai, Hà Nội) chia sẻ với báo Pháp Luật.
Giá heo hơi tại Hà Nội bất ngờ tăng chóng mặt, lên 91.000 đồng/kg |
Như vậy, sau một thời gian dài giảm sâu, heo hơi miền Bắc được cho là đang bước vào đợt sốt giá mới.
Giải thích cho hiện tượng tăng giá đột biến này, lãnh đạo CP cho biết giá heo đang nhích lên do lượng đặt mua từ các công ty tăng mạnh so với tháng trước. Nhiều nơi đặt số lượng tăng gấp đôi.
Ông Lê Xuân Huy, Phó Tổng giám đốc CP Việt Nam nói rằng một số nhà kinh doanh đầu cơ đã để chuồng trống nay mua gom hàng để chuẩn bị tung ra thị trường sau khi học sinh đi học và công nhân tại khu công nghiệp làm trở lại.
Ngoài ra, ông Huy không ngoại trừ khả năng, thương lái chờ thông thương cửa khẩu để bán sang Trung Quốc sau dịch.
"Với tình hình này, giá heo tại một số tỉnh sẽ không còn mức 70.000 đồng như những ngày trước đó", ông Huy nói.
"Hiện có thông tin các trại heo tại Hà Nội đồng loạt đóng cửa, không xuất heo ra thị trường. Kể cả các trại tư nhân của bà con nông dân và các công ty lớn. Ở thị trường bên ngoài thì không thể biết nguồn cung còn bao nhiêu. Do đó thấy hiếm hàng thì bắt buộc thị trường sẽ tự động tăng giá lên. Khoảng hai hôm nay các trại lại bắt đầu mở cửa nhưng số lượng heo xuất dè dặt", một chủ trang trại cho biết.
Trong khi giá heo tại Hà Nội liên tục tăng nhanh với tốc độ chóng mặt, thì giá heo tại khu vực phía Nam vẫn giữ ở mức ổn định hoặc tăng nhẹ ở một vài tỉnh.
Theo thông tin từ chợ đầu mối Hóc Môn, giá lợn hơi đang được bán với giá cao nhất khoảng 75.000 đồng/kg, còn giá thịt lợn mảnh loại 1 giá 100.000 đồng/kg, loại 2 giá 88.000 đồng/kg, thịt cốt lết bán 90.000 đồng/kg, nạc dăm 105.000 đồng/kg, sườn non 140.000 đồng/kg… Hiện nay, sản lượng thịt lợn hơi về chợ đầu mối Hóc Môn đã giảm đến 27% so với cùng kỳ năm ngoài.
Trong khi giá heo tại khu vực miền Bắc đang tăng mạnh, thì tại các tỉnh phía nam vẫn giữ ổn định |
Ghi nhận tại các siêu thị, cửa hàng hiện đại, giá thịt lợn tiếp tục giữ ở mức bình ổn giá và đang dao động trong khoảng từ 151.900 - 219.900 đồng/kg. Theo các tiểu thương tại chợ truyền thống và các siêu thị hiện đại, mặc dù giá thịt lợn đã giảm nhưng sức mua mặt hàng này không tăng mà còn đang giảm khoảng 20 - 30% so với cùng kỳ năm ngoái do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng nhập khẩu mạnh thịt lợn nên đã góp phần bổ sung nguồn cung thịt lợn đang thiếu hụt. Mặt khác, do người tiêu dùng đã chuyển dần sang lựa chọn các loại thực phẩm khác thay thế thịt lợn nên cũng khiến giá thịt lợn giảm. Đặc biệt gần đây, các bếp ăn tập thể, căn tin trường học chưa hoạt động lại do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 nên cũng tác động không nhỏ đến nguồn cầu, khiến giá thịt lợn giảm thêm.
Theo Sở Công thương TP.HCM, để kiểm soát giá cả đối với mặt hàng thịt lợn, đơn vị đã phối hợp với các đơn vị tăng cường kiểm tra giá tại các chợ truyền thống, các siêu thị… để các tiểu thương không tăng giá đột biến, găm hàng chờ đẩy giá cao, gây bất lợi cho người tiêu dùng; kiên quyết xử lý các trường hợp đầu cơ, tích trữ hàng hóa khiến thị trường khan hiếm….
Hiện nay, giá thịt lợn tại TP.HCM đang được kiểm soát chặt chẽ bằng việc kiểm soát từ trang trại đến các chợ đầu mối, chợ truyền thống, siêu thị và cuối cùng là đến người tiêu dùng bằng việc thực hiện truy xuất nguồn gốc xuất xứ sản phẩm.
BẢNG GIÁ HEO HƠI NGÀY 4/3/2020 | ||
Tỉnh/thành | Khoảng giá (đồng/kg) | Tăng (+)/giảm (-) đồng/kg |
Hà Nội | 81.000-82.000 | +2.000 |
Hải Dương | 75.000-76.000 | Giữ nguyên |
Thái Bình | 80.000-82.000 | Giữ nguyên |
Bắc Ninh | 74.000-75.000 | Giữ nguyên |
Hà Nam | 81.000-82.000 | +2.000 |
Hưng Yên | 82.000-85.000 | Giữ nguyên |
Nam Định | 81.000-82.000 | +2.000 |
Ninh Bình | 78.000-80.000 | +2.000 |
Hải Phòng | 77.000-78.000 | Giữ nguyên |
Quảng Ninh | 75.000-76.000 | Giữ nguyên |
Lào Cai | 78.000-80.000 | Giữ nguyên |
Tuyên Quang | 75.000-76.000 | +1.000 |
Cao Bằng | 77.000-78.000 | Giữ nguyên |
Bắc Kạn | 75.000-76.000 | Giữ nguyên |
Phú Thọ | 77.000-78.000 | Giữ nguyên |
Thái Nguyên | 75.000-76.000 | Giữ nguyên |
Bắc Giang | 78.000-80.000 | +2.000 |
Vĩnh Phúc | 75.000-76.000 | +1.000 |
Lạng Sơn | 76.000-77.000 | Giữ nguyên |
Hòa Bình | 75.000-76.000 | Giữ nguyên |
Sơn La | 77.000-78.000 | GIữ nguyên |
Lai Châu | 76.000-77.000 | Giữ nguyên |
Thanh Hóa | 79.000-80.000 | Giữ nguyên |
Nghệ An | 79.000-80.000 | Giữ nguyên |
Hà Tĩnh | 79.000-80.000 | Giữ nguyên |
Quảng Bình | 79.000-80.000 | Giữ nguyên |
Quảng Trị | 79.000-80.000 | Giữ nguyên |
TT-Huế | 78.000-79.000 | Giữ nguyên |
Quảng Nam | 70.000-71.000 | Giữ nguyên |
Quảng Ngãi | 82.000-83.000 | Giữ nguyên |
Bình Định | 70.000-71.000 | Giữ nguyên |
Phú Yên | 77.000-78.000 | -1.000 |
Khánh Hòa | 79.000-80.000 | Giữ nguyên |
Bình Thuận | 71.000-72.000 | Giữ nguyên |
Đắk Lắk | 71.000-72.000 | Giữ nguyên |
Đắk Nông | 79.000-80.000 | Giữ nguyên |
Lâm Đồng | 78.000-80.000 | Giữ nguyên |
Gia Lai | 77.000-78.000 | Giữ nguyên |
Đồng Nai | 75.000-76.000 | Giữ nguyên |
TP.HCM | 72.000-73.000 | Giữ nguyên |
Bình Dương | 71.000-72.000 | +1.000 |
Bình Phước | 71.000-72.000 | +1.000 |
BR-VT | 71.00-72.000 | +1.000 |
Long An | 78.000-80.000 | Giữ nguyên |
Tiền Giang | 76.000-77.000 | Giữ nguyên |
Bạc Liêu | 69.000-70.000 | Giữ nguyên |
Bến Tre | 78.000-80.000 | Giữ nguyên |
Trà Vinh | 69.000-70.000 | -1.000 |
Cần Thơ | 78.000-80.000 | Giữ nguyên |
Hậu Giang | 76.000-77.000 | Giữ nguyên |
Cà Mau | 78.000-80.000 | Giữ nguyên |
Vĩnh Long | 72.000-75.000 | Giữ nguyên |
An Giang | 78.000-80.000 | Giữ nguyên |
Kiêng Giang | 69.000-70.000 | Giữ nguyên |
Sóc Trăng | 72.000-75.000 | Giữ nguyên |
Đồng Tháp | 72.000-75.000 | Giữ nguyên |
Tây Ninh | 71.000-72.000 | +1.000 |