Hành trình từ phòng tư liệu nhỏ đến trung tâm lưu trữ quốc gia
Ngày 22/9/1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 343-CP thành lập Viện Tư liệu phim Việt Nam (nay là Viện Phim Việt Nam), trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trước đó, tiền thân của Viện là Phòng Tư liệu phim thuộc Cục Điện ảnh, được hình thành từ năm 1965 – giai đoạn chiến tranh khốc liệt chống Mỹ, khi tư liệu điện ảnh luôn phải sơ tán, bảo vệ khẩn cấp trong điều kiện thiếu thốn, tạm bợ.
Vượt qua muôn vàn khó khăn, đội ngũ cán bộ lưu trữ thời kỳ đầu đã đặt nền móng cho một thiết chế văn hóa quan trọng của quốc gia. Đến năm 1989, Viện chính thức có trụ sở tại 523 Kim Mã – Ba Đình – Hà Nội, với hệ thống kho phim đạt chuẩn, thiết bị hiện đại, hỗ trợ hiệu quả cho công tác bảo quản và khai thác phim.
![]() |
Nhân viên kho kiểm tra tình trạng phim lưu trữ định kỳ |
Hiện nay, Viện Phim Việt Nam có hệ thống lưu trữ phân bố tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Thạch Thất, với ba trung tâm lưu trữ, gần 80.000 cuốn phim nhựa 35mm, 16mm, hơn 20.000 tên phim cùng hàng chục ngàn băng video, tư liệu quý giá. Danh mục lưu trữ bao gồm phim truyện, tài liệu, khoa học, hoạt hình, cùng nhiều phim do chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 sản xuất – những mảnh ghép phản ánh toàn diện gương mặt điện ảnh Việt Nam trong suốt thế kỷ XX.
Không chỉ là kho lưu trữ, Viện Phim Việt Nam thực sự là một “bảo tàng hình ảnh động sống” với nhiều hoạt động chuyên sâu:
Lưu chiểu, bảo quản và phục chế các bản phim gốc, sử dụng công nghệ hiện đại như rửa siêu âm, hút chân không, số hóa đến chuẩn 2K và xử lý âm thanh, hình ảnh bằng phần mềm chuyên dụng.
Số hóa dữ liệu và lập hồ sơ phim mục theo chuẩn quốc tế của Liên đoàn Các Viện Lưu trữ phim quốc tế (FIAF), giúp tra cứu, in trích, phân loại theo thể loại, nhân vật, sự kiện một cách hệ thống.
![]() |
Khối lượng áp phích lớn được bảo quản nghiêm ngặt trong kho chuyên dụng |
Tổ chức chiếu phim, hội thảo và giao lưu, xây dựng các chương trình chuyên đề tại Nhà Văn hóa Điện ảnh Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, phát hành phim ra quốc tế với phụ đề đa ngữ, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam.
Sưu tầm, nghiên cứu và sản xuất phim tư liệu, tạo nên những tác phẩm đạt giải thưởng cao tại các kỳ Liên hoan phim trong nước và quốc tế như Hồ Chí Minh – chân dung một con người, Joris Ivens và cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam…
Viện cũng hoàn thành Phòng trưng bày Điện ảnh với nhiều hiện vật từ các thời kỳ, là một dạng “triển lãm tĩnh” bổ trợ cho các “hiện vật sống” là những thước phim quý.
Xu hướng toàn cầu: Lưu trữ hình ảnh động là giữ gìn ký ức quốc gia
Việt Nam không đơn độc trong nỗ lực gìn giữ ký ức hình ảnh động. Nhiều quốc gia trên thế giới đã xác lập hệ thống lưu trữ phim như một thiết chế không thể thiếu. British Film Institute (BFI – Anh) sở hữu kho phim quốc gia với hơn 1 triệu bản phim, triển khai chiến lược số hóa toàn diện, đưa các phim tư liệu xưa đến công chúng qua nền tảng trực tuyến "BFI Player". Cinémathèque Française (Pháp) – nơi bảo tồn không chỉ phim, mà cả thiết bị quay phim, kịch bản, ảnh hậu trường, hoạt động như một bảo tàng điện ảnh thực thụ, nơi khán giả có thể trải nghiệm lịch sử điện ảnh bằng nhiều hình thức. National Film Archive of India (NFAI) – lưu giữ hàng nghìn cuốn phim cổ điển, tiến hành phục chế và chiếu lại phục vụ giáo dục cộng đồng và bảo tồn văn hóa đa dạng của Ấn Độ.
![]() |
Ông Oscar Staffas Edström - trưởng bộ phận thương mại và xúc tiến Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam - trao tặng phim tài liệu Victory Vietnam (Chiến thắng của Việt Nam) cho bà Lê Thị Hà,Giám đốc Viện Phim Việt Nam |
Các mô hình này đều cho thấy rằng không có một nền điện ảnh phát triển nào thiếu vắng một Viện lưu trữ mạnh, vừa để bảo tồn, vừa để tạo nền tảng học thuật và phát triển công nghiệp nội dung. Viện Phim Việt Nam đang đóng đúng vai trò này.
Viện Phim Việt Nam là thành viên chính thức của Liên đoàn các Viện lưu trữ phim quốc tế (FIAF) và Hiệp hội Lưu trữ Nghe nhìn Đông Nam Á – Thái Bình Dương (SEAPAVAA). Viện đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế, đồng thời hợp tác với các Viện phim lớn như INA (Pháp), Viện Joris Ivens (Hà Lan), Viện Lưu trữ quốc gia Lào… góp phần khẳng định vị thế Việt Nam trong lĩnh vực lưu trữ phim quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu, Viện Phim cũng đang đối diện với nhiều thách thức cần giải pháp cấp thiết. Như, tốc độ số hóa cần được đẩy mạnh trong khi phim nhựa ngày một xuống cấp, số lượng lớn phim chưa được chuyển đổi sang định dạng số an toàn. Hay, thiếu nền tảng trực tuyến phục vụ công chúng, trong khi nhu cầu tiếp cận tư liệu điện ảnh qua môi trường số ngày càng cao. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng, công nghệ và nhân lực chuyên sâu cần tiếp tục được đầu tư theo hướng hiện đại hóa – tương tự như mô hình các Viện lưu trữ tiên tiến thế giới. Cần thiết định vị lại Viện như một bảo tàng tư liệu quốc gia, không chỉ lưu trữ mà còn trưng bày, giáo dục, truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ.
![]() |
Hoạt động tổ chức chiếu phim tư liệu tại Viện phim Việt Nam thu hút đông đảo nghệ sĩ điện ảnh và người yêu phim. |
Trong Đề án phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, một trong những trụ cột là số hóa và khai thác kho tàng văn hóa dân tộc. Viện Phim Việt Nam, với năng lực và dữ liệu hiện có, chính là nơi có thể cung cấp “nguồn vàng tư liệu” để phát triển các sản phẩm văn hóa sáng tạo: phim tài liệu, chương trình truyền hình, video giáo dục, bảo tàng số…
Đầu tư cho Viện Phim hôm nay chính là đầu tư cho ký ức số của dân tộc ngày mai, khi mọi thước phim trở thành dữ liệu sống, phục vụ học thuật, giáo dục, văn hóa và cả công nghiệp nội dung số.
![]() |
Nghiệm thu Đề tài khoa học cấp cơ sở: Triết lý Phật giáo trong bộ phim Xuân, hạ, thu, đông, rồi lại xuân... của Kim Ki-Duk |
Trong một xã hội phát triển nhanh, ký ức tập thể là điều dễ bị lãng quên. Những thước phim tài liệu, điện ảnh, hình ảnh động mà Viện Phim Việt Nam đang gìn giữ không chỉ là tư liệu lịch sử – đó là ký ức sống động của dân tộc, là bản sắc, là tinh thần Việt Nam được ghi lại bằng ngôn ngữ điện ảnh.
Xét trên cả khía cạnh kỹ thuật, văn hóa và lịch sử, Viện Phim Việt Nam chính là một “bảo tàng tư liệu hình ảnh động quốc gia” cần được nhìn nhận đúng tầm vóc và đầu tư tương xứng. Bởi mỗi cuốn phim được gìn giữ hôm nay, là một mảnh ghép quý giá trong bức tranh lịch sử dân tộc mai sau.
Thành tích của Viện phim Việt Nam
- Huân chương Lao động hạng ba năm 1989;
- Huân chương Itxala hạng nhì của Chính phủ Lào trao tặng năm 1998;
- Huân chương Lao động hạng nhì năm 1999;
- Huân chương Lao động hạng nhất (QĐ số 610/2004/QĐ/CTN ngày 8/9/2004);
- Huân chương Độc lập hạng Ba (QĐ số 1331/QĐ-CTN ngày 14/9/2009);
- Cờ thi đua của Chính phủ năm 2011;
- Huân chương Độc lập hạng Nhì (QĐ số 1984/QĐ-CTN ngày 15/8/2014);
- Cờ thi đua của Chính phủ năm 2017;
- Bằng khen Thủ tướng Chính phủ năm 2019 (Quyết định số 1197/QĐ - TTg ngày 16/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ);
- Cờ thi đua của Chính phủ năm 2020 (Quyết định số 636/QĐ - TTg ngày 29/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ);
- Cờ thi đua của Bộ nhiều năm: 2012, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020;
- Giấy khen của Ban chỉ đạo giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho đơn vị có thành tích xuất sắc trong hoạt động quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giai đoạn 2018 - 2020;
- Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vì có thành tích xuất sắc trong hoạt động quảng bá, truyền thông ngành văn hóa, thể thao và du lịch năm 2020;
- Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vì có thành tích xuất sắc trong hoạt động khoa học, công nghệ giai đoạn 2016 - 2021.
Vietnam Night tại LHP Quốc tế Busan: VFDA và BHD giới thiệu điện ảnh Việt, công bố lịch phát hành “Hộ Linh Tráng Sĩ”
Tại Liên hoan phim Quốc tế Busan lần thứ 30, Vietnam Night giới thiệu điện ảnh Việt, đồng thời BHD công bố phát hành phim huyền sử “Hộ Linh Tráng Sĩ” vào Quốc khánh 2026.