Bill Gates nắm quyền kiểm soát tập đoàn khách sạn hàng đầu thế giới Four Seasons

Với việc mua lại cổ phần từ Hoàng tử Arab Saudi, Alwaleed bin Talal, công ty đầu tư của Bill Gates sẽ nắm giữ 71,3% chuỗi khách sạn Four Seasons... theo the Wall Street Journal.

Hoàng tử Ả Rập Saudi al-Waleed bin Talal đã đồng ý bán một nửa cổ phần của mình trong Four Seasons Hotels and Resorts cho người đồng sở hữu Bill Gates, trao cho ông quyền kiểm soát trong một thỏa thuận định giá nhà điều hành khách sạn sang trọng ở mức 10 tỷ USD.

Theo các điều khoản mà các công ty đã công bố hôm 23/9. Cascade Investment LLC của tỷ phú Bill Gatessẽ trả 2,21 tỷ USD cho 23,75% cổ phần của Four Seasons do Công ty Kingdom Holding của Prince al-Waleed nắm giữ.

im-397476.jpg
Một khách sạn Four Seasons ở New York. Với việc ông Gates nắm quyền kiểm soát, tập đoàn khách sạn kỳ vọng có thể phát triển công nghệ và các khu nhà ở mang thương hiệu Four Seasons. Ảnh: WSJ

Trước đó, Kingdom và Cascade nắm giữ cổ phần bằng nhau tại tập đoàn khách sạn này từ năm 2007. Khi việc mua bán hoàn tất, Cascade nắm giữ 71,25% cổ phần điều hành khách sạn, trong khi Kingdom giữ 23,75% cổ phần.

Người sáng lập Four Seasons và Chủ tịch Isadore Sharp vẫn giữ 5% cổ phần.

Giám đốc điều hành Four Seasons – John Davison chia sẻ: với việc nắm quyền kiểm soát của Cascade, ông hy vọng công ty lưu trú sang trọng sẽ đẩy mạnh cam kết của mình đối với các công nghệ mới và khu nhà ở mang thương hiệu Four Seasons. Công ty cũng sẽ theo đuổi hơn nữa các vấn đề môi trường, đa dạng hơn và một số vấn đề khác nhằm thu hút khách du lịch trẻ tuổi hơn.

“Chúng tôi muốn bảo tồn thương hiệu di sản của mình nhưng cũng phát triển nó cho thế hệ người tiêu dùng xa xỉ tiếp theo,” ông Davison nói.

Ông Sarmad Zok – Giám đốc điều hành của Kingdom Hotel Investments cho biết: rất nhiều các nhà đầu tư đã ngỏ ý muốn mua lại cổ phần của Four Seasons thông qua Kingdom Holdings trong nhiều năm qua, từ các công ty bảo hiểm Trung Quốc đến các tập đoàn cao cấp của châu Âu. Nhưng Kingdom đang cố gắng tìm đúng nhà đầu tư và ông coi giá trị doanh nghiệp 10 tỷ đô la là một “con số kỳ diệu”.

Các đối tác đã tư nhân hóa Four Seasons vào năm 2007 trong một thỏa thuận trị giá 3,8 tỷ USD, sau đó cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã ảnh hưởng đến công việc kinh doanh. Kingdom đánh dấu giảm giá trị của Four Seasons nắm giữ hàng năm từ năm 2008 đến 2012, theo báo cáo hàng năm mà doanh nghiệp này công bố vì một phần của Kingdom giao dịch ở Riyadh.

Theo một phát ngôn viên của công ty, công ty đã tăng cường mở rộng trong những năm gần đây. Hiện công ty đang vận hành 121 khách sạn và khu nghỉ dưỡng và 46 khu dân cư, với hơn 50 dự án.

Con số đó so với 74 khách sạn và khu nghỉ dưỡng và 19 khu dân cư có thương hiệu vào năm 2007.

season.jpg
Quỹ đầu tư của Bill Gates, Cascade Investment sẽ trở thành cổ đông lớn nhất của tập đoàn khách sạn Four Seasons sau thương vụ trị giá 2,21 tỷ USD.

Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nặng nề đến hầu hết các khách sạn và biến thể Delta mới đã cắt giảm sự trở lại sơ khai của ngành. 

Nhưng phân khúc hạng sang đã hoạt động tốt hơn hầu hết, một phần là do lượng khách công ty giảm đã được bù đắp một phần bởi sự gia tăng của khách du lịch nghỉ dưỡng dành cho khách hàng giàu có.

Theo công ty theo dõi dữ liệu khách sạn STR. Trong khi tỷ lệ lấp đầy thấp hơn, giá phòng trung bình hàng ngày ở mức 343,23USD, tăng từ 284,09 USD vào năm 2019, STR cho biết.

Tuy nhiên, giống như các khách sạn ở tất cả các mức giá, Four Seasons đã bị thiếu hụt lao động trầm trọng. Tại một khách sạn Four Seasons, tổng giám đốc pha cà phê cho khách, trong khi ở một khách sạn khác, giám đốc tài chính giúp dọn dẹp phòng, ông Davison nói.

“Trong một số trường hợp hạn chế, chúng tôi thậm chí đã giới hạn công suất của mình,” ông nói thêm.

Theo các cựu giám đốc điều hành Four Seasons, cựu thành viên hội đồng quản trị và đối tác kinh doanh, những nỗ lực để mở rộng dấu ấn của công ty và tăng doanh thu đôi khi gây ra căng thẳng giữa Cascade và Kingdom. Ông Zok hôm 23/9 đã loại bỏ bất kỳ cuộc đấu đá nội bộ nào giữa các đối tác.

“Các cổ đông giống như những cặp vợ chồng đã kết hôn. Mọi người có sự nhạy cảm khác nhau," ông nói. “Điều đó là tốt miễn là họ cùng công nhận rằng ý tưởng tốt nhất chiếm ưu thế. Mối quan hệ của chúng tôi lành mạnh hơn so với các công ty tư nhân khác."

Các nhà phân tích và giám đốc điều hành ngành cho biết, giữ cho Four Seasons phát triển với tốc độ hiện tại có thể là một thách thức. Công ty hiện đang tăng gấp đôi với hơn một khách sạn ở những nơi như Thành phố New York và Boston, một động thái bất thường đối với một nhà điều hành hạng sang khi hầu hết các chủ khách sạn ở thành phố thích sự độc quyền.

Dan Peek, chủ tịch nhóm khách sạn tại Hodges Ward Elliott, công ty môi giới khách sạn và ngân hàng đầu tư, cho biết: “Vẫn còn rất nhiều nơi dành cho Four Seasons, mặc dù không nhiều như trước. cơ hội.

Ông Davison cho biết một con đường tăng trưởng khác của công ty sẽ là các căn hộ Four Seasons mang thương hiệu độc lập, một sản phẩm ngày càng được ưa chuộng bởi các chuỗi cửa hàng sang trọng.

Ông ấy và ông Gates không nhất thiết phải đồng ý về mọi thứ. Ông Gates, đồng sáng lập tập đoàn Microsoft, dự đoán vào năm ngoái rằng khoảng một nửa số chuyến đi công tác sẽ biến mất sau hậu quả của đại dịch. Ông Davison, giống như hầu hết các giám đốc điều hành khách sạn khác, nhìn nhận điều đó theo cách khác.

“Tôi coi đó là một thách thức ngắn hạn,” ông nói. "Chúng tôi rất lạc quan về việc trở lại du lịch kinh doanh."

Four Seasons là một trong những thương hiệu khách sạn xa xỉ được biết đến nhiều nhất trên thế giới với hơn 100 địa điểm ở 5 châu lục. Mặc dù ra đời vào năm 1960 bởi kiến trúc sư trẻ tuổi Isadore Sharp, tuy nhiên, thương hiệu chỉ thực sự bùng nổ vào những năm 1970 khi Four Seasons London chính thức khai trương, mở ra định hướng phát triển trong tương lai của công ty và trở thành chuẩn mực cho hệ thống dịch vụ của Four Seasons ngày nay trên thế giới.

Năm 1986, công ty niêm yết trên sàn chứng khoán, nhưng đến năm 2007, gia đình Sharp cùng với những cổ đông có cùng chí hướng như Bill Gates hay Hoàng tử Al-Waleed bin Talal đã đưa công ty trở về sở hữu tư nhân để bảo vệ sự nhất quán trong quan điểm phát triển của thương hiệu.

NGỌC CHÂU