Dự đoán xu thế COVID-19 thông qua các đại dịch trong quá khứ

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đang chứng kiến sự cải thiện đáng kể về tỷ lệ lây nhiễm, nhập viện và tử vong.

Hai năm sau đại dịch COVID-19, trong những tuần gần đây, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đang chứng kiến sự cải thiện đáng kể về tỷ lệ lây nhiễm, nhập viện và tử vong. Điều đó dường như báo hiệu cuộc khủng hoảng y tế đang hạ nhiệt.

Theo hãng tin AP, bà Erica Charters, chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Oxford, cho biết sự kết thúc của các dịch bệnh trước đây không được nghiên cứu kỹ lưỡng như quá trình khởi phát của chúng. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng những manh mối từ các dịch bệnh này có thể cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về việc đại dịch COVID-19 sẽ kết thúc như thế nào.

“Chúng ta có thể kết luận một điều rằng sự kết thúc của một đại dịch là quá trình lâu dài, theo những cách khác nhau và có khả năng không thể chấm dứt hoàn toàn ở cùng một thời điểm. Những kịch bản kết thúc đại dịch bao gồm: “kết thúc về mặt y tế” (khi dịch bệnh suy giảm), “kết thúc về mặt chính trị” (khi các chính phủ dỡ bỏ toàn bộ biện pháp phòng dịch) và “kết thúc về mặt xã hội” (khi mọi người thay đổi nhận thức về dịch bệnh)”, bà Charters nói.

CÚM

Một lớp học chỉ có 3 học sinh tại trường Trung học cơ sở Grebey ở Hazleton, Mỹ vào ngày 16/10/1957. Tất cả các trường công lập đều đã đóng cửa do bệnh giống cúm hoành hành trong khu vực. Ảnh AP
Một lớp học chỉ có 3 học sinh tại trường Trung học cơ sở Grebey ở Hazleton, Mỹ vào ngày 16/10/1957. Tất cả các trường công lập đều đã đóng cửa do bệnh giống cúm hoành hành trong khu vực. Ảnh AP

 Trước đại dịch COVID-19, cúm được coi là đại dịch khiến nhiều người tử vong nhất trên thế giới. Các nhà sử học ước tính đại dịch cúm năm 1918-1919 đã giết chết 50 triệu người trên toàn thế giới, trong đó có 675.000 người Mỹ. Đại dịch cúm năm 1957-1958 đã khiến khoảng 116.000 người Mỹ thiệt mạng. Sau đó, đến năm 1968, 100.000 người đã tử vong vì dịch bệnh này.

Vào năm 2009, đợt bùng phát cúm mới đã gây ra một đại dịch khác, nhưng đợt dịch này không đặc biệt nguy hiểm đối với người cao tuổi - nhóm có tỷ lệ tử vong cao nhất. Gần 13.000 người ở Mỹ đã tử vong trong đại dịch này.

Đến tháng 8/2010, Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố bệnh cúm đã chuyển sang giai đoạn hậu đại dịch, khi ca bệnh và các đợt bùng phát chỉ còn diễn ra theo mùa. Trong mỗi đợt bùng phát, đại dịch đã suy yếu theo thời gian và phần lớn dân số đã hình thành khả năng miễn dịch. Chúng trở thành bệnh cúm theo mùa trong những năm sau đó. Các chuyên gia dự đoán mô hình này có lẽ cũng sẽ xảy ra với COVID-19.

Ông Matthew Ferrari, Giám đốc Trung tâm Động lực học Bệnh truyền nhiễm bang Pennsylvania, cho biết: “COVID-19 sẽ trở thành bệnh thông thường. Mô hình dịch bệnh sẽ biến chuyển một các đều đặn trong năm, có thời điểm ghi nhận nhiều ca nhiễm, có thời điểm ghi nhận ít ca mắc hơn, giống như bệnh cúm mùa hoặc cảm lạnh thông thường”.

Những bệnh nhân cúm tại Đan Mạch hồi tháng 10/1957. Ảnh: AP
Những bệnh nhân cúm tại Đan Mạch hồi tháng 10/1957. Ảnh: AP

 HIV

Năm 1981, giới chức y tế Mỹ đã báo cáo một loạt các trường hợp tổn thương giống bệnh ung thư và viêm phổi ở những người đồng tính nam vốn khỏe mạnh ở California và New York. Ca bệnh xuất hiện ngày càng nhiều và một năm sau, giới chức đã gọi căn bệnh này là AIDS do hội chứng suy giảm miễn dịch gây ra.

Các nhà nghiên cứu đã xác định hội chứng này do HIV – loại virus suy giảm miễn dịch ở người – gây ra, làm suy yếu hệ thống miễn dịch của người bệnh bằng cách phá hủy các tế bào ngăn ngừa bệnh và nhiễm trùng. Trong nhiều năm, AIDS vẫn được coi là một “bản án tử hình” đáng sợ. Đến năm 1994, HIV trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở những người Mỹ từ 25 đến 44 tuổi.

Tuy nhiên, các phương pháp điều trị HIV có sẵn vào những năm 1990 đã biến nó trở thành một căn bệnh mãn tính có thể kiểm soát được đối với hầu hết người Mỹ. Song, mọi chú ý đã đổ dồn sang châu Phi và các khu vực khác trên thế giới, nơi HIV chưa được kiểm soát và tình trạng khẩn cấp vẫn đang diễn ra. 

Từ đó có thể thấy rằng các đại dịch sẽ không thể chấm dứt hoàn toàn khi một số khu vực trên toàn cầu vẫn ghi nhận các trường hợp nhiễm bệnh. 

ZIKA

Bé Jose Wesley tại Brazil mắc dị tật đầu nhỏ. Ảnh: AP 
Bé Jose Wesley tại Brazil mắc dị tật đầu nhỏ. Ảnh: AP 

Năm 2015, Brazil đã phải hứng chịu đợt bùng dịch do virus Zika gây ra. Căn bệnh này chủ yếu lây truyền qua vết cắn của muỗi aedes bị nhiễm bệnh, có thể tìm thấy trên khắp thế giới. Căn bệnh này có xu hướng chỉ gây bệnh nhẹ cho hầu hết người lớn và trẻ em. Nhưng nó đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng khi một số nghiên cứu chỉ ra nhiễm virus Zika trong thời kỳ mang thai có thể gây dị tật bẩm sinh, ảnh hưởng đến sự phát triển của não, gây tật đầu nhỏ ở trẻ sơ sinh.

Vào cuối năm đó, virus Zika đã lan truyền ra khắp các nước Mỹ Latinh khác. Năm 2016, WHO ban bố tình trạng khẩn cấp về y tế công cộng trên toàn cầu. Dịch bệnh này sau đó đã gây tác động rõ ràng đến Mỹ. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã ghi nhận 224 trường hợp nhiễm virus Zika ở lục địa Mỹ và trên 36.000 trường hợp ở các vùng lãnh thổ nước này, phần lớn ở Puerto Rico.

Năm 2017, số ca nhiễm đã giảm đáng kể và dịch bệnh hầu như biến mất ngay sau đó. Các chuyên gia tin rằng dịch bệnh đã bị “xoá sổ” khi mọi người hình thành khả năng miễn dịch. Tiến sĩ Denise Jamieson, cựu quan chức CDC, nhà lãnh đạo chủ chốt trong nỗ lực đối phó với virus Zika, cho biết: “Virus gần như sắp biến mất” và áp lực đối với việc cung cấp vaccine Zika ở Mỹ cũng đã giảm bớt.

Có khả năng virus Zika sẽ “ngủ yên” trong nhiều năm. Tuy nhiên, dịch bệnh có thể tái bùng phát nếu virus tiếp tục đột biến hoặc ngày càng có nhiều người trẻ tuổi chưa có khả năng miễn dịch. Bà Jamieson, Chủ nhiệm khoa Phụ sản tại Đại học Y Emory nhận định rằng hầu hết các dịch bệnh đều kết thúc một cách dễ dàng. 

COVID-19

Nowa Paye, 9 tuổi, được đưa đến xe cấp cứu sau khi có dấu hiệu nhiễm Ebola ở làng Freeman Reserve,  Liberia năm 2014. Ảnh: AP
Nowa Paye, 9 tuổi, được đưa đến xe cấp cứu sau khi có dấu hiệu nhiễm Ebola ở làng Freeman Reserve,  Liberia năm 2014. Ảnh: AP

Hai năm trước, vào ngày 11/3, Tổ chức Y tế Thế giới đã chính thức tuyên bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu. WHO cho biết khi các quốc gia chứng kiến số ca mắc, hoặc ít nhất là số ca nhập viện và tử vong suy giảm, họ sẽ tuyên bố kết thúc tình trạng khẩn cấp này. Tuy nhiên, WHO vẫn chưa đưa ra con số mục tiêu. 

Trong tuần trước, các ca mắc ở Mỹ đã giảm dần và số ca mắc trên toàn cầu đã giảm 5%. Nhưng một số quốc gia vẫn chứng kiến xu hướng ca nhiễm tăng, bao gồm Anh, New Zealand và Hong Kong (Trung Quốc).

Tiến sĩ Carissa Etienne, Giám đốc Tổ chức Y tế Liên Mỹ thuộc WHO, cho biết người dân ở nhiều quốc gia vẫn đang thiếu vaccine và thuốc men. Riêng ở khu vực Mỹ Latinh và Caribe, trên 248 triệu người chưa được tiêm mũi vaccine COVID-19 đầu tiên. Các quốc gia có tỷ lệ tiêm chủng thấp có khả năng sẽ chứng kiến làn sóng ca mắc, nhập viện và tử vong gia tăng trong tương lai.

Trong khi đó, Tiến sĩ Ciro Ugarte, Giám đốc về Tình trạng y tế khẩn cấp thuộc Tổ chức Y tế Liên Mỹ, nhấn mạnh: “Chúng ra vẫn chưa thoát khỏi đại dịch này. Chúng ta vẫn cần tiếp cận đại dịch này một cách thận trọng”.

Hải Vân/Báo Tin tức

Anh cung cấp bệ phóng tên lửa bọc thép Stormer cho Ukraina

Anh cung cấp bệ phóng tên lửa bọc thép Stormer cho Ukraina

Thủ tướng Boris Johnson tuyên bố sẽ cung cấp cho Ukraina các phương tiện bọc thép công nghệ cao với tên lửa phòng không đi kèm để chống lại máy bay phản lực và trực thăng của Nga.