Người đọc khi gấp cuốn sách, phải đọc lại, bởi tác phẩm có nhiều áng văn đẹp, không chất vấn, mà luôn hướng người đọc phải nghĩ ngợi vì những day dứt phận người.
Phận người Việt trong từng chương, như “thầy bói”, “gọi hồn”, “thuyền nhân”..., đều được khắc họa bằng những chi tiết chọn lọc kỹ lưỡng từ vốn sống rủng rỉnh của tác giả, cộng với sự từng trải, sự khéo léo dùng câu chữ của người làm thơ, khiến cho tác phẩm ít sạn. Nguyễn Đức Tùng viết về ký ức có hơi rối, nhưng viết hay, nên vẫn có sức lôi cuốn. Chương mở đầu là “Thầy bói”, làm người đọc cảm thấy tò mò. Ai trong đời người mà không thử xem bói một lần? Vậy thầy bói “phán” gì, tiểu thuyết này nói gì?... Nhà thơ viết về một đề tài cực khó, mà ông như là hiện thân của nhân vật chính, ngồi kể lại. Hồi kết là chương “Gọi hồn”. Có thể cuộc đời là thật, có thể cuộc đời là hư ảo. Cho dù có hư cấu, sáng tạo trong thể loại tiểu thuyết, thì trong 55 chương hồi, mỗi chương mang một câu chuyện dù khốc liệt đến mấy cũng đều được hóa giải bởi sự tha thứ, và tình yêu con người chính là căn nguyên hóa giải được cả sân hận, vượt qua những ngóc ngách tối tăm.
![]() |
Ngoài 2 chương đầu và cuối, tác giả chủ ý dẫn dắt người đọc đi theo nhân vật người kể chuyện - “tôi”. Đây là cách lựa chọn kiểu nhân vật “Không tự tin” về chính mình, về cách kể của mình, cũng là tự thú về những giới hạn bất khả, thường kết thúc bằng dấu hỏi bỏ lửng. Đi tiếp ở 53 chương khác, là nhưng câu chuyện về góc khuất, ẩn náu trong thuyền nhân, phận người. Hầu hết người chết đi, không còn dấu vết, không để lại gì trên thế gian. Tiểu thuyết cũng đặt ra một số đông những đứa trẻ trên thuyền bị bắt đi sang các nước khác, như Đông Âu hay Nam Phi, Bắc Phi…Những đứa trẻ này sẽ không biết đến ngôn ngữ Việt, không quê hương, bản quán, không Tổ quốc? Đó cũng là một câu hỏi bỏ ngỏ, đầy sức gợi, suy tư. Tiểu thuyết của Nguyễn Đức Tùng viết về một giai đoạn lịch sử nước Việt khi người dân có nhiều lý do riêng để ra đi. Bấp bênh trên thuyền và biển mệnh mông, rời xa Tổ quốc, mà thèm tiếng Việt, cùng với hàng ngàn phận người chìm xuống vô tăm tích. Không lưu dấu gì trên biển, trên đất đai.
Tác phẩm khiến người đọc nhận thấy tác giả là người trong cuộc và cũng là người từng trải, lọc lõi, một người đi nhiều, đọc rộng. Lâu nay người đọc biết đến Nguyễn Đức Tùng trong vai một nhà thơ, giới thiệu phê bình thơ, viết tập văn xuôi “thư gửi con trai”. Nay ông viết tiểu thuyết “Thuyền” thể hiện sức biểu đạt, cách suy tưởng của người viết từng trải, với 55 chương. Nhà văn đã dựng lên một bối cảnh rộng. Đó là con thuyền chở các thuyền nhân từ Việt Nam đi qua vịnh Thái Lan, đối mặt với cướp biển. Sau nhiều biến cố, nạn ách, nhân vật “tôi” sang Canada và trở thành bác sỹ. Ở đây, ông vừa là bác sỹ mổ xẻ tâm lý con người, vừa là một họa sỹ ký họa, vẽ chân dung bằng chữ, nên đã đi tới bến mỗi phận người trong từng chương sách. Dù có chương, chỉ một trang sách duy nhất - “Một người di dân”, cũng là cách ký họa một mảnh đời người đàn bà góa phụ di dân gốc Ý, tốt bụng, hay nhắc về ngôi làng có đàn “sếu cổ trắng bay về đậu kín cây mỗi mùa xuân”. Một em bé không tên ở chương “Thủy táng” gây nín thở, vì ân tình người Việt đùm bọc nhau trong hoạn nạn. Chi tiết một đôi dép của đứa trẻ con sẵn lòng đi chân không để cho bạn chia tay dương gian, khi xuống biển, bạn ấy còn có dép để đi… quả là sự phát hiện tinh tế, đầy tính nhân văn.
Cách viết hấp dẫn, tiết chế cảm xúc, cho thấy Nguyễn Đức Tùng làm chủ được ký ức, cảm xúc. Ông điều khiển các nhân vật đi lại, đối thoại, hay chiêm nghiệm lẽ đời cũng chậm rãi, chẳng có gì phải vội trên đời, dù đối thoại trong tiểu thuyết này không hề có gạch đầu dòng, không có dẫn lời trong ngoặc kép, tiểu thuyết trích dẫn cả thơ, thơ của cả người gọi hồn bằng cảm xúc, thật huyền hồ chậm rãi, rất thuyết phục người đọc….
Trong cuốn tiểu thuyết này, tác giả viết không phán xét, không triết lý, không tạo cảm giác có một bố cục được sắp xếp, mạch văn như được tuôn chảy từ miền ký ức, như thể nhớ gì viết nấy; như một cách ghi chép của nhà thơ viết văn, nên có nhiều trang văn đẹp và hay, thể hiện rõ dụng ý của tác giả? - “ nhờ liếm làn sương mỏng mỗi ngày trên mạn thuyền, tôi bớt đi cơn khát”( trang143). “ Tôi liếm những giọt sương cuối cùng của ban mai” ( trang 144 , chương: “Nhỏ xíu”). Và sau khi liếm sương là lại mất đi một mạng người. Mất mát được trộn với sương mai, đã làm dịu và an ủi cả phần người đọc.
Nếu không kể đến nghề viết thì nhà thơ Nguyễn Đức Tùng chỉ ghi chép thôi, những phận người di dân trên thuyền, với những ký ức ám ảnh, ám ảnh tới nỗi không xóa nhòa của một thời người Việt bỏ nước ra đi tìm sự đổi đời ở chốn mặt trời mọc trên một đất nước khác? Bao nhiêu hy vọng và tuyệt vọng trên biển, đều được diễn tả qua các tình huống khéo léo. Tiểu thuyết “Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng khiến người đọc ngoảnh lại lịch sử nước nhà sau năm 1975, và sau nữa là những cuộc ra đi trên biển của nhiều cuộc di dân không tính bằng trăm, bằng ngàn người ra đi, đã nằm sâu đáy biển. Những day trở này, khắc khoải này, không thể tính được, cũng không đếm nổi có bao nhiêu người di dân không trở lại, không tới đích? Khi rơi xuống biển rồi, cần gì đến giấy khai sinh, chứng minh thư nhân dân? Trên biển, chương “Lửa trên thuyền”, có những lục vấn nhẹ nhàng. “Nhân loại quay mặt đi trước những nghịch cảnh. Tôi không thể
trách nhân loại được…”; “…Tôi cô độc, và đứng một mình đối diện với số phận của mình…” - chương “Thủy táng” ẩn chứa nhiều day dứt, quặn đau khó tả. Những người yếu bóng vía sẽ khó ngủ vì những phận người ra đi rơi xuống biển như một con cá, lọt thỏm trong tiếng sóng.
Mỗi chương trong tiểu thuyết “Thuyền” đều hắt lên bóng dáng phận người trong suy tưởng của bạn đọc; in đậm ấn tượng “mưa phải rơi trên mỗi mặt người, như một dấu hỏi?”. Khi xây dựng nhân vật Liên Hương, tác giả chọn một cái chết nhanh như tia chớp, chỉ một bước chân, nhân vật . thanh thoát, nhẹ nhàng nhảy xuống biển, để nhanh thoát khỏi lũ cướp, bỏ mặc các luật biển tàn bạo, nhơ nhớp. Bộ mặt ác quỷ của lũ cướp biển khiến người đọc rùng mình, ghê tởm khi gặp cảnh chúng hãm hiếp người phụ nữ, vợ của một người lái tàu, ngay trước mắt người chồng. Kết thúc ký ức của người thợ máy là hành động ông treo cổ tự tử, vì không thể sống mà xóa đi sự đau đớn tủi nhục, cả sự sợ hãi dày xéo tâm can.
Mỗi nhân vật trong tiểu thuyết vượt qua biên giới, đều nhìn, chiêm nghiệm, lý giải về cái ác của giống loài. Giống người là gì mà tàn ác không cả tanh tưởi. Cả sự lạnh lẽo đến ghê sợ của đêm tối, của nhưng cái chết mà luật biển không có khi ở xa đất liền. Bút pháp tả thực của nhà thơ như cứ thong thả kể, kiểu như người bên quán trà chén Hà Nội, thoáng mùa hoa sấu rơi. Nguyễn Đức Tùng tả về miền ký ức ông sống và đi qua, như ai đó nhớ lại câu hát cũ, chiêm nghiệm cùng với tha thứ tất thảy.
Có những chương, hồi, tuy có chỗ hơi rối, nhưng cảm xúc lại rất thực, dữ dội, khiến người đọc tò mò, tự suy ngẫm, rồi sẽ ra sao nữa trên biển? Ví như ở chương “Cá”, tác giả có nhứng giả thiết đặt ra cái chết như thể cắt nghĩa rất nhẹ nhàng vì sự không hóa giải được mọi trăn trở của kiếp người: “khi tôi chết mọi đau khổ sẽ chấm dứt. Sự nhục nhã chấm dứt. Khi tôi chết đừng hỏi vì sao chúng tôi đến đây?” (tr 135). Những giả thiết không có hồi đáp khiến người đọc nhận thấy, nó chỉ có ở người viết, chỉ có ở dấu ấn văn chương, cùng tấm lòng nhân hậu và một hồi ức giàu bản lĩnh của tác giả. Các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết vì thế mà đọng lại rất lâu trong lòng người đọc, cùng với dấu ấn lịch sử xã hội Việt Nam về một thời không thể nào quên.
Có thể tác giả chọn chương “Gọi hồn” để mượn hồn người đã khuất trở về, day dứt, ám ảnh khôn nguôi, và thực tế, ký ức của con người không bao giờ mất đi, dù họ đã rời khỏi cõi dương gian. Với cách kể chân thực, giản dị, dẫn giải tự nhiên giàu sức thuyết phục, tác phẩm đã có sức cuốn hút người đọc qua tứng trang sách. Tiểu thuyết “Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng vừa mới ra mắt ở Hà Nội, chỉ sau một tháng đã in nối bản 4000 cuốn, và được đông đáo bạn đọc đón nhận ở nhiều cung bậc cảm xúc, xôn xao với những tranh luận khen, chê... thú vị. Điều đó cho thấy, bạn đọc hôm nay rất tinh tường trong văn hóa đọc, văn hóa lắng nghe và tiếp nhận.
Về ý nghĩa lịch sử, “Thuyền” là cuốn tiểu thuyết nỗ lực ghi dấu ký ức, chống lại sự lãng quên của giống loài. Về lĩnh vực văn học, “thuyền” là tác phẩm viết về lịch sử di dân đường biển của người Việt Nam sau năm 1975. Tác giả chọn tư thế phát ngôn, hướng những giá trị nhân bản mang tính nhân loại phổ quát. Nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở cách lan tỏa các giá trị nhân bản, nhân văn. Điều đó được chạm đến cảm xúc - con người có tình yêu thương, cộng với sự vị tha, sẽ hóa giải được mọi nông nỗi phận người. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng trở thành một trong số hiếm tiểu thuyết gây được tiếng vang, và đang rất “hót” trên văn đàn. Góp cho văn học Việt Nam ghi một dấu ấn đặc biệt trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Khám phá cuốn sách Cách mạng Tháng Tám 1945: Thắng lợi vĩ đại đầu tiên của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX
Tác phẩm của GS.TS.NGND Trịnh Nhu và PGS.TS Trần Trọng Thơ khắc họa thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945, góp phần lý giải giá trị lịch sử, ý nghĩa và bài học cho dân tộc Việt Nam.