Phụ nữ mới

Nữ trí thức trong hệ sinh thái khoa học mới sau Nghị quyết 57

Nghị quyết 57-NQ/TW đánh dấu giai đoạn phát triển mới của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong tiến trình này nữ trí thức là lực lượng nghiên cứu quan trọng, cần được trao cơ chế, chính sách để tham gia vào chương trình trọng điểm mới.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Trong chiến lược phát triển dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ không chỉ là động lực tăng trưởng mà còn là thước đo năng lực quản trị quốc gia. Nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã dành sự quan tâm ngày càng rõ nét cho lĩnh vực này, đặc biệt là thông qua việc hoàn thiện thể chế và tăng đầu tư cho nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, để khoa học thực sự trở thành nền tảng của phát triển bền vững, một câu hỏi quan trọng đặt ra là: làm thế nào để mọi nguồn lực trí tuệ, trong đó có đội ngũ nữ trí thức, được phát huy đầy đủ và bình đẳng?

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 22/12/2024 đã tạo ra một bước ngoặt về tư duy phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số. Lần đầu tiên, đổi mới sáng tạo được đặt ở vị trí trung tâm, gắn chặt với yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia. Nghị quyết không chỉ định hướng hoạt động nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng, mà còn mở ra kỳ vọng về một hệ sinh thái khoa học – công nghệ năng động, có khả năng thu hút và giữ chân nhân tài.

Trong bức tranh đó, đội ngũ nữ trí thức giữ vai trò ngày càng quan trọng. Họ hiện diện ở nhiều lĩnh vực mũi nhọn như y sinh, môi trường, công nghệ thông tin, khoa học xã hội, giáo dục và chính sách công. Không ít nữ nhà khoa học Việt Nam đã khẳng định năng lực chuyên môn ở tầm khu vực và quốc tế. Tuy vậy, trên thực tế, con đường nghiên cứu của phụ nữ vẫn gặp nhiều rào cản “vô hình”  từ áp lực cân bằng giữa công việc khoa học và trách nhiệm gia đình, đến cơ hội tiếp cận nguồn lực nghiên cứu, vị trí lãnh đạo học thuật và khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Thực trạng chung của khoa học Việt Nam nhiều năm qua cũng tác động không nhỏ tới nữ trí thức. Mỗi năm có hàng nghìn đề tài được triển khai, song số công trình tạo được ảnh hưởng thực tiễn còn hạn chế. Không ít nghiên cứu dừng lại ở nghiệm thu, chưa đi được chặng đường dài hơn là ứng dụng và sản xuất. Với nữ nhà khoa học, những khó khăn này thường nhân đôi khi họ thiếu mạng lưới hỗ trợ đủ mạnh, thiếu cơ chế khuyến khích tham gia các nhóm nghiên cứu lớn hoặc các dự án mang tính dài hạn.

Một trong những điểm nghẽn đáng chú ý là cách thức tổ chức nghiên cứu còn phân tán. Các nhà khoa học làm việc rải rác ở nhiều cơ quan, viện, trường; việc kết nối liên ngành, liên cơ sở chưa thực sự hiệu quả. Trong bối cảnh đó, nữ trí thức vốn ít cơ hội tiếp cận các “nhóm quyền lực học thuật” càng khó tham gia những đề tài lớn, có khả năng tạo đột phá và mở rộng ảnh hưởng xã hội.

Nghị quyết 57, vì vậy, không chỉ đặt ra yêu cầu đổi mới cơ chế chung, mà còn mở ra cơ hội để thiết kế các chính sách mang tính bao trùm hơn. Việc xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, trung tâm nghiên cứu chuyên sâu, nếu được tổ chức minh bạch và dựa trên năng lực thực chất, sẽ tạo điều kiện để nữ trí thức phát huy thế mạnh, tham gia bình đẳng vào các chương trình khoa học trọng điểm quốc gia.

Nhiều ý kiến cho rằng, sau Nghị quyết 57, cần có những cơ chế cụ thể nhằm hỗ trợ nữ nhà khoa học trong các giai đoạn then chốt của sự nghiệp nghiên cứu. Đó có thể là chính sách linh hoạt về thời gian, điều kiện làm việc; ưu tiên tiếp cận quỹ nghiên cứu cho các đề tài do nữ trí thức chủ trì; hay các chương trình cố vấn, kết nối giữa thế hệ nhà khoa học nữ trẻ với những nhà khoa học giàu kinh nghiệm.

Đặc biệt, việc gắn kết nghiên cứu khoa học với doanh nghiệp và thị trường một nội dung được nhấn mạnh trong Nghị quyết 57 cũng mở ra dư địa mới cho nữ trí thức. Khi doanh nghiệp tham gia đặt hàng, đồng đầu tư cho nghiên cứu, các đề tài sẽ bám sát hơn nhu cầu thực tiễn, giảm rủi ro “làm xong để cất ngăn kéo”. Đây cũng là cơ hội để nữ nhà khoa học tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị đổi mới sáng tạo, không chỉ với vai trò nghiên cứu mà còn ở các khâu quản trị công nghệ, phát triển sản phẩm và chính sách.

Tuy nhiên, để điều đó trở thành hiện thực, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế hỗ trợ sau nghiên cứu: từ bảo hộ sở hữu trí tuệ, thử nghiệm sản phẩm, đến kết nối thị trường và chia sẻ lợi ích. Khi quyền lợi của nhà khoa học được đảm bảo một cách công bằng, minh bạch, động lực sáng tạo sẽ được củng cố. Với nữ trí thức, đây chính là yếu tố then chốt để họ yên tâm theo đuổi các dự án dài hơi, có chiều sâu học thuật và giá trị xã hội.

Nghị quyết 57 đã đặt nền móng cho một giai đoạn phát triển mới của khoa học và công nghệ Việt Nam. Việc hiện thực hóa tinh thần của Nghị quyết không chỉ đo bằng số lượng đề tài hay mức đầu tư, mà còn bằng khả năng tạo dựng một môi trường nghiên cứu công bằng, khai phóng và giàu cơ hội. Khi nữ trí thức được trao thêm không gian phát triển, khoa học Việt Nam sẽ có thêm một nguồn lực sáng tạo quan trọng để tiến xa và bền vững hơn.

PV

Thành tích nghiên cứu khoa học ấn tượng của 9 nữ giáo sư năm 2025

Thành tích nghiên cứu khoa học ấn tượng của 9 nữ giáo sư năm 2025

Trong số hơn 70 giáo sư vừa mới được công nhận năm 2025, có 9 người là nữ. Nhìn vào bảng thành tích nghiên cứu khoa học ấn tượng, có thể thấy sự nỗ lực không ngừng nghỉ và nghị lực vượt khó phi thường của họ.