![]() |
| Thứ trưởng Thường trực Bộ Khoa học và Công nghệ Vũ Hải Quân trình bày Báo cáo Hội nghị. Ảnh: BCP |
Tại Hội nghị sơ kết 01 năm thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết 57; đồng thời tổng kết 5 năm cải cách hành chính nhà nước và 4 năm triển khai Đề án 06, Thứ trưởng Thường trực Bộ Khoa học và Công nghệ Vũ Hải Quân đã trình bày báo cáo toàn diện về tiến trình này, chỉ rõ những kết quả nổi bật, các hạn chế và nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.
Theo Thứ trưởng Vũ Hải Quân, năm 2025 đánh dấu bước ngoặt quan trọng đối với lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, cùng việc Tổng Bí thư Tô Lâm trực tiếp làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương, cho thấy quyết tâm chính trị rất cao trong việc xác lập khoa học – công nghệ và chuyển đổi số là đột phá chiến lược, giữ vai trò trụ cột trong phát triển đất nước.
Trên tinh thần đó, Quốc hội và Chính phủ đã nhanh chóng vào cuộc. Quốc hội ban hành Nghị quyết số 193, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 71 nhằm cụ thể hóa chương trình hành động, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho việc triển khai Nghị quyết 57. Hệ thống chỉ đạo, điều hành từ Trung ương đến địa phương được thiết lập thống nhất, bảo đảm sự chỉ đạo xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Trong năm 2025, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành được triển khai với cường độ cao. Chính phủ đã ban hành 14 chỉ thị, 25 công điện, khoảng 40 thông báo kết luận và gần 80 văn bản chỉ đạo chuyên đề liên quan trực tiếp đến khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Ban Chỉ đạo của Chính phủ tổ chức 5 phiên họp chuyên đề; lãnh đạo Chính phủ chủ trì khoảng 30 phiên họp để rà soát tiến độ, tháo gỡ khó khăn và phân công trách nhiệm. Tổng số nhiệm vụ được giao cho các bộ, ngành, địa phương lên tới 1.298 nhiệm vụ, phản ánh quy mô và mức độ bao trùm của chương trình.
Một điểm nhấn quan trọng là công tác hoàn thiện thể chế. Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành 27 dự luật liên quan; riêng Bộ Khoa học và Công nghệ tham mưu xây dựng 10 luật, 20 nghị định và 44 thông tư. Cách tiếp cận tập trung vào tháo gỡ rào cản, mở rộng không gian thử nghiệm và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm ban hành Chương trình chuyển đổi số quốc gia từ năm 2020. Sau 5 năm triển khai, đặc biệt trong năm đầu thực hiện Nghị quyết 57, chuyển đổi số đã được đẩy nhanh và đi vào chiều sâu hơn.
Các chỉ số quốc tế cho thấy sự cải thiện rõ rệt: chỉ số hạ tầng viễn thông xếp hạng 67, tăng 41 bậc; tốc độ Internet xếp hạng 18 thế giới, tăng 42 bậc; Chính phủ điện tử xếp hạng 71; an toàn thông tin xếp hạng 17. Kinh tế số tăng trưởng 8,6%, doanh thu ngành công nghiệp ICT tăng 26%.
Ở góc độ người dân, các nền tảng số thiết yếu đã hình thành tương đối đồng bộ. 100% công dân từ 14 tuổi trở lên có căn cước công dân; khoảng 24 triệu người trưởng thành sở hữu chữ ký số, tăng gấp 37 lần so với trước. Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2025 đạt 0,766, xếp thứ 93/193 quốc gia, phản ánh tác động xã hội của chuyển đổi số.
Cùng với chuyển đổi số, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tiếp tục được thúc đẩy theo hướng gắn với nhu cầu phát triển. Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục 11 nhóm công nghệ với 35 sản phẩm ưu tiên, lựa chọn 6 sản phẩm trọng điểm triển khai ngay.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ động phối hợp với doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học để đánh giá mức độ tự chủ công nghệ lõi và tỷ lệ nội địa hóa, từ đó đặt hàng nghiên cứu, sản xuất theo nhu cầu thực tiễn.
Vị thế đổi mới sáng tạo của Việt Nam tiếp tục được cải thiện, xếp hạng 44/139 quốc gia, dẫn đầu nhóm thu nhập trung bình thấp. Cả nước có khoảng 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trong đó đã xuất hiện 2 kỳ lân công nghệ.
Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) hiện bảo trợ 10 mạng lưới tại 22 quốc gia, kết nối hàng nghìn chuyên gia. Cổng sáng kiến do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì đã tiếp nhận hơn 1.000 sáng kiến, lựa chọn tài trợ 309 sáng kiến, trong đó có 22 sáng kiến đột phá và công nghệ chiến lược.
Chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ tới các địa phương. Đà Nẵng, Huế vận hành hiệu quả trung tâm điều hành thông minh; Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng đi đầu trong giao thông thông minh, chiếu sáng thông minh, cảng thông minh.
Các địa phương như Thái Nguyên, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Lào Cai, Đồng Tháp có tỷ lệ hoàn thành nhiệm vụ cao. Bắc Ninh tiếp tục dẫn đầu về chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp. Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Huế duy trì nhóm đầu về chỉ số đổi mới sáng tạo cấp tỉnh.
Ở cấp bộ, ngành, nhiều mô hình dữ liệu và nền tảng số được hình thành: Bộ Ngoại giao xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài; Bộ Nội vụ vận hành cơ sở dữ liệu cán bộ, công chức; Bộ Công an giữ vai trò hạt nhân trong Trung tâm dữ liệu quốc gia; Ngân hàng Nhà nước tiên phong trong thanh toán không dùng tiền mặt.
Bên cạnh kết quả tích cực, báo cáo cũng chỉ ra những hạn chế: độ lệch thể chế trong giai đoạn chuyển tiếp, tiến độ và chất lượng triển khai chưa đồng đều, mức độ liên thông dữ liệu còn hạn chế, tính chủ động ở một số nơi chưa cao.
Từ thực tiễn đó, các bài học kinh nghiệm được rút ra, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo thống nhất; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; triển khai đồng bộ từ thể chế đến hạ tầng, dữ liệu và con người; gắn trách nhiệm người đứng đầu với nguyên tắc “6 rõ” trong tổ chức thực hiện.
Theo Thứ trưởng Vũ Hải Quân, kết quả sau một năm triển khai Nghị quyết 57 mới là bước khởi đầu, nhưng đã tạo nền tảng quan trọng cho giai đoạn phát triển tiếp theo, trong đó khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tiếp tục được xác định là động lực then chốt cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước.


















































Nghị quyết 57 cho thấy xu hướng chuyển mình của đất nước
Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được nhiều trí thức.