Thúc đẩy khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong bảo tồn di sản văn hóa

Nghị định 308/2025/NĐ-CP tạo khung pháp lý thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý di sản. Quy định chú trọng chuẩn hóa dữ liệu, bảo mật thông tin áp dụng cách thức mới nâng hiệu quả khai thác, bảo tồn di sản.
Du khách trải nghiệm di sản thông qua công nghệ thực tế ảo. Ảnh: KDPT
Du khách trải nghiệm di sản thông qua công nghệ thực tế ảo. Ảnh: KDPT

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 308/2025/NĐ-CP, văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa, trong đó nội dung nổi bật là việc xác lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động chuyển đổi số trong lĩnh vực di sản. Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm đưa công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vào quỹ đạo hiện đại hóa, phù hợp xu thế quản trị bằng dữ liệu và khoa học công nghệ.

Theo Nghị định, chuyển đổi số trong lĩnh vực di sản văn hóa bao gồm việc thiết lập và vận hành các nền tảng số, hệ thống thông tin phục vụ quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia; xây dựng bộ tiêu chuẩn dữ liệu; tạo lập dữ liệu số để quảng bá, giới thiệu di sản trên môi trường trực tuyến.

Một nguyên tắc xuyên suốt được đặt ra là mọi hoạt động số hóa phải bảo đảm không làm sai lệch bản chất, cấu trúc và giá trị gốc của di sản. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nhiều thiết chế văn hóa đang đẩy mạnh làm phim 3D, số hóa hiện vật, mô phỏng công trình cổ… nhưng chưa có tiêu chuẩn thống nhất về độ chính xác, tính toàn vẹn hay phương thức bảo mật.

Hạ tầng kỹ thuật phục vụ số hóa cũng được yêu cầu đáp ứng các tiêu chí về độ ổn định, khả năng liên thông và mức độ an toàn thông tin. Dữ liệu sau khi được số hóa phải mô tả trung thực chi tiết, đặc điểm, giá trị của di sản trên cơ sở các tiêu chuẩn khoa học. Việc thu thập dữ liệu cần thực hiện có kiểm soát, có sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn nhằm tránh tình trạng thu thập manh mún hoặc chồng chéo.

Nghị định cũng phân định trách nhiệm rõ ràng giữa các đơn vị quản lý. Bộ, ngành trung ương và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải đảm bảo nguồn lực để xây dựng, cập nhật và khai thác hệ thống dữ liệu, xem đây là nhiệm vụ lâu dài trong quá trình hiện đại hóa quản lý nhà nước và phát huy di sản văn hóa.

Một nội dung lớn của Nghị định là yêu cầu hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa kho thông tin tập trung phục vụ lưu trữ, bảo vệ, khai thác và phát huy di sản trên nền tảng số. Cơ sở dữ liệu này phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chuẩn hóa thông tin đầu vào, phân cấp cập nhật và quản trị theo đúng quy định của pháp luật về công nghệ thông tin và dữ liệu.

Nền tảng dữ liệu phải đảm bảo ba yếu tố: tính nguyên vẹn, tính bảo mật và tính khả dụng. Điều này nhằm bảo vệ thông tin nhạy cảm, tránh mất mát dữ liệu, đồng thời bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện cho các cơ quan nghiên cứu, cơ sở bảo tàng, đơn vị quản lý và cả người dân khi cần khai thác các nội dung được phép công bố.

Ngoài ra, cơ sở dữ liệu phải tương thích với hệ thống dùng chung của ngành văn hóa và kết nối được với các nền tảng quốc gia khác, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tra cứu, nghiên cứu và triển khai các chương trình quản lý di sản quy mô lớn. Việc chuẩn hóa này hướng tới mục tiêu lâu dài là hình thành một hệ sinh thái dữ liệu đồng bộ, giúp nâng cao chất lượng bảo tồn vật thể, phi vật thể cũng như hỗ trợ công tác hoạch định chính sách.

Nghị định giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các bộ ngành tiếp tục nghiên cứu các giải pháp công nghệ tiên tiến phục vụ chuyên môn như trưng bày, thuyết minh, bảo quản, tu bổ, phục hồi và truyền dạy di sản văn hóa. Điều này mở ra cơ hội ứng dụng những công nghệ đã chứng minh hiệu quả trên thế giới như quét 3D độ phân giải cao, mô hình số BIM, trí tuệ nhân tạo hỗ trợ phân tích hiện trạng, hay các nền tảng tương tác đa phương tiện nhằm cải thiện trưng bày bảo tàng.

Việc chuyển đổi giữa các loại hồ sơ giấy sang thông điệp dữ liệu cũng được quy định chặt chẽ. Đối với các di sản thuộc Danh mục UNESCO, di tích quốc gia đặc biệt hay bảo vật quốc gia, quá trình này phải có văn bản chấp thuận của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Các di sản cấp tỉnh phải có xác nhận của cơ quan chuyên môn về văn hóa tại địa phương. Động thái này nhằm đảm bảo rằng mọi hình thức số hóa hoặc chuyển đổi thông tin đều được kiểm soát, tránh sai lệch hoặc sử dụng dữ liệu không phù hợp.

Song song đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải chủ động bố trí nguồn lực để triển khai khoa học – công nghệ và chuyển đổi số, đồng thời tuân thủ các quy định về giao dịch điện tử và tiêu chuẩn kỹ thuật trong lưu trữ và quản trị dữ liệu.

Công nghệ bảo tồn di sản của Phygital Labs. Ảnh: Phygital Labs
Công nghệ bảo tồn di sản của Phygital Labs. Ảnh: Phygital Labs

Nghị định khuyến khích các cơ quan, tổ chức thực hiện số hóa hồ sơ, tài liệu và các loại hình di sản để phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia. Đây là công việc chiếm khối lượng lớn nhưng có vai trò then chốt trong việc bảo tồn lâu dài. Khi dữ liệu đã được số hóa, việc quản lý, tra cứu, giám sát hiện trạng di sản trở nên thuận tiện hơn và giảm rủi ro do hao mòn của tài liệu gốc.

Một điểm đáng chú ý là Nghị định tạo điều kiện để xã hội hóa hoạt động sáng tạo nội dung liên quan đến di sản. Các sản phẩm công nghệ như trò chơi, phim mô phỏng, âm nhạc hay các ứng dụng tương tác có thể được phát triển trên nền dữ liệu di sản nhằm mở rộng khả năng tiếp cận của công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Đây là cách tiếp cận mới, giúp di sản bước ra khỏi khuôn khổ trưng bày truyền thống để trở thành chất liệu sáng tạo.

Bên cạnh đó, các công nghệ theo dõi, đo đạc môi trường bảo quản và giám sát hiện trạng di tích cũng được khuyến khích áp dụng. Các phần mềm quản lý kho, hệ thống cảm biến theo dõi nhiệt độ, độ ẩm, hay mô hình dự báo hư hại có thể giúp các bảo tàng và di tích chủ động hơn trong công tác bảo quản.

Nghị định nhấn mạnh yêu cầu tăng cường các ứng dụng phục vụ khách tham quan như thuyết minh tự động, hướng dẫn trực tuyến, bản đồ tương tác hay không gian trưng bày ảo. Những hình thức này giúp người xem tiếp cận thông tin theo hướng trực quan hơn, đặc biệt hữu ích tại các điểm di tích đông khách hoặc có hạn chế về không gian.

Việc mở rộng các ứng dụng khoa học, công nghệ cũng nhằm đa dạng hóa đối tượng tham quan. Công nghệ thực tế ảo, thuyết minh đa ngôn ngữ hay trợ lý ảo có thể hỗ trợ du khách quốc tế, người cao tuổi và người khuyết tật tiếp cận di sản dễ dàng hơn. Đây là xu hướng được nhiều bảo tàng trên thế giới áp dụng và Việt Nam đang từng bước tiếp cận.

Trong lĩnh vực giáo dục, các cơ sở đào tạo được khuyến khích tổ chức hoạt động học tập dựa trên di sản bằng cả phương thức trực tiếp lẫn trực tuyến. Các công cụ học tập số, mô hình 3D, phim tư liệu tương tác có thể hỗ trợ học sinh tiếp cận di sản một cách sinh động, đồng thời khơi gợi hứng thú khám phá.

Việc ban hành Nghị định 308/2025/NĐ-CP cho thấy quyết tâm của Chính phủ trong việc nâng cao năng lực quản lý di sản bằng công nghệ và dữ liệu. Trong bối cảnh số hóa diễn ra mạnh mẽ ở nhiều ngành, việc di sản văn hóa có hành lang pháp lý rõ ràng sẽ giúp hạn chế các hoạt động tự phát, đồng thời bảo đảm tính thống nhất, an toàn và hiệu quả.

Những yêu cầu chặt chẽ về chuẩn dữ liệu, tính nguyên gốc hay trách nhiệm quản lý là cơ sở để hình thành hệ sinh thái di sản số có tính bền vững. Đây không chỉ là nhiệm vụ của ngành văn hóa mà còn là quá trình hợp tác giữa nhiều lĩnh vực: công nghệ thông tin, giáo dục, truyền thông, du lịch và nghiên cứu khoa học.

Nghị định có hiệu lực từ ngày 15/01/2026, mở ra giai đoạn mới trong nỗ lực gìn giữ và lan tỏa giá trị di sản Việt Nam bằng các công cụ hiện đại, bảo đảm vừa bảo tồn di sản theo đúng bản chất, vừa đưa chúng đến gần hơn với công chúng trong thời đại số.

PV

Dự thảo Nghị định mới về đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp khoa học công nghệ

Dự thảo Nghị định mới về đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp khoa học công nghệ

Bộ Khoa học và Công nghệ đang dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật KHCN và ĐMST 2025, nhằm tạo hành lang pháp lý, thúc đẩy đổi mới, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp KHCN.