Khi ngành sản xuất và du lịch sụp đổ trong 3 năm xảy ra đại dịch COVID-19, một số nước ở Đông Nam Á nhận ra rằng, họ cần bơm thêm tiền vào lĩnh vực nông nghiệp vốn hạn chế đầu tư và bị đánh giá thấp trước đó. Tuy nhiên, hiện vấn lĩnh vực này đang dần nhận được sự quan tâm từ các chính phủ.
Theo dữ liệu của chính phủ, ngành này ở Campuchia đã tăng trưởng khoảng 6% mỗi năm trong hai năm qua so với năm 2019.
Năm ngoái, xuất khẩu nông nghiệp của Việt Nam đã tăng 9,3%, lên mức kỷ lục mới hơn là 49 tỷ euro (52,3 tỷ USD).
Bất chấp sự tăng trưởng trong lĩnh vực này, vẫn có những lo ngại bởi nông nghiệp là một trong những lĩnh vự tạo ra biến đổi khí hậu trong khu vực và toàn cầu.
Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính rằng, nông nghiệp chiếm 19% tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam vào năm 2020, cao thứ hai trong số các ngành.
Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu vẫn còn khá hạn chế. Chẳng hạn, Trung Quốc đã mua khoảng một nửa tổng số nông sản xuất khẩu từ Campuchia và khoảng 1/4 của Thái Lan vào năm ngoái.
Theo dữ liệu của chính phủ Việt Nam, vào năm 2022, EU chỉ chiếm 11% kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Giờ đây, Hà Nội và một số chính phủ ở Đông Nam Á khác đang theo đuổi nền nông nghiệp "xanh" hoặc "bền vững" để thúc đẩy xuất khẩu sang các quốc gia châu Âu và thu hút các cơ hội đầu tư lấy môi trường làm trung tâm của EU.
Vào cuối năm 2021, Ngân hàng Đầu tư Châu Âu đã cung cấp khoản tài trợ trị giá 15 triệu euro cho nông nghiệp bền vững ở Campuchia. Vào tháng 8 năm ngoái, EU đã hợp tác với Bangkok và Chiang Mai ở Thái Lan để sản xuất lương thực bền vững. Tại Philippines, EU có sáng kiến "Nhóm châu Âu" trị giá 60 triệu euro về "kinh tế xanh".
EU đặt mục tiêu huy động khoảng 55 tỷ euro từ năm 2021 đến năm 2027 để giúp các khu vực khác hướng tới nền kinh tế trung hòa hơn với khí hậu.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã phê duyệt chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và cho rằng lĩnh vực này sẽ đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm lên tới 3% vào năm 2030. Đến thời điểm đó, cơ quan này muốn phân bón hữu cơ chiếm khoảng 1/3 lượng sử dụng toàn quốc, đồng thời đặt ra các mục tiêu về tiết kiệm nước và độ che phủ của rừng.
Thái Lan và Philippines, những nền kinh tế nông nghiệp chủ chốt, cũng đang nhanh chóng đi theo hướng đó.
"An ninh lương thực vẫn là ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự quốc gia của chúng tôi. Được củng cố trong tầm nhìn của chúng tôi về một Philippines thịnh vượng, kiên cường và an toàn vào năm 2040", ông Ferdinand Marcos Jr, Tổng thống Philippines, cho biết trong bài phát biểu tại Davos vào tháng trước.
Trước khi dẫn đầu một phái đoàn doanh nghiệp đến Việt Nam vào năm ngoái, Cao ủy EU về nông nghiệp, Janusz Wojciechowski, lưu ý rằng một bước đột phá lớn trong thương mại nông nghiệp đã được thực hiện nhờ việc ký kết hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam vào năm 2020.
Thông qua hiệp định thương mại, ông nói: "Công dân EU được tăng cường tiếp cận với trà và cà phê Việt Nam, cùng với một loạt các loại hạt, gia vị và trái cây nhiệt đới ấn tượng". Cũng nhờ đó mà một số mặt hàng xuất khẩu được bảo hộ "chỉ dẫn địa lý" như hồng không hạt Bảo Lâm, vải thiều Lục Ngạn đã đến được châu Âu.
Một quan chức EU nói rằng, họ hy vọng hợp tác về nông nghiệp xanh sẽ phát triển khi Brussels tìm cách ký các hiệp định thương mại tự do mới với một số chính phủ ở Đông Nam Á.
Một thỏa thuận thương mại có thể được thống nhất với Indonesia vào cuối năm nay, sau một vòng đàm phán vào đầu tháng này.
Thái Lan và Philippines đều bày tỏ mong muốn nối lại đàm phán. Một thỏa thuận thương mại với hai quốc gia Đông Nam Á sau có thể thúc đẩy đáng kể thương mại theo ngành với EU.
"Nhiều quốc gia trong ASEAN đang nỗ lực hết sức để tăng sản lượng nông nghiệp và giá trị dinh dưỡng của thực phẩm được sản xuất tại địa phương - tất cả đều nhằm tăng cường an ninh lương thực, đồng thời cố gắng thúc đẩy xuất khẩu nông sản", Chris Humphrey, Giám đốc điều hành của EU- Hội đồng Kinh doanh ASEAN, cho biết.
Ông Humphrey cho biết thêm, mặc dù nhiều doanh nghiệp châu Âu đang hợp tác chặt chẽ với các chính phủ ASEAN trong lĩnh vực này và có nhiều cơ hội để tăng xuất khẩu nông sản từ Đông Nam Á sang châu Âu, nhưng các nhà xuất khẩu phải đối mặt với nhiều rào cản.
Điều đó bao gồm khoảng cách và hậu cần liên quan đến thương mại, nhưng "cũng có những lo ngại xung quanh việc đáp ứng các yêu cầu quy định của EU mà đối với nhiều hộ sản xuất nhỏ là một gánh nặng".
Trong hai năm qua, EU và các hiệp hội doanh nghiệp châu Âu đã tài trợ cho các cuộc hội thảo trên khắp Đông Nam Á để giải thích rõ hơn về những thay đổi quy định này. Đây đặc biệt là một vấn đề đối với các nền kinh tế nhỏ và kém phát triển hơn của Đông Nam Á.
Một báo cáo được công bố vào tháng 3 năm ngoái về tiềm năng của EU trở thành thị trường xuất khẩu nông sản thực phẩm của Lào cho thấy, việc "thiếu sự hỗ trợ kỹ thuật từ các bên liên quan, các quy định mới của EU và việc thực thi quy định đối với việc nhập khẩu nông sản thực phẩm... đều là những thách thức quan trọng mà các nhà xuất khẩu Lào phải đối mặt".
Ngoài ra, nghiên cứu cho biết thêm, để "đạt được chứng chỉ hữu cơ về tiêu chuẩn sản phẩm và yêu cầu an toàn là một vấn đề lớn khác mà các nhà xuất khẩu Lào phải đối mặt".
Các nhà phân tích trong khu vực cho rằng Brussels phải tăng cường nỗ lực hướng dẫn tốt hơn cho các quan chức và doanh nghiệp Đông Nam Á.
Thúc đẩy quan hệ trên mặt trận nông nghiệp bền vững sẽ phức tạp hơn nhiều khi nói đến Malaysia và Indonesia do nó có sự khác biệt hơn so với dầu cọ - mặt hàng nông nghiệp chủ lực của 2 quốc gia này.
Malaysia và Indonesia, hai nhà sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới, đã xung đột với EU trong nhiều năm về sáng kiến của Brussels nhằm chống nạn phá rừng toàn cầu, theo đó sẽ cấm nhập khẩu vào thị trường EU những hàng hóa liên quan đến nạn phá rừng hoặc suy thoái rừng.
Cả hai quốc gia đã đưa EU lên Tổ chức Thương mại Thế giới về động thái của Ủy ban châu Âu nhằm loại bỏ dần nhiên liệu sinh học làm từ dầu cọ vào năm 2030.
"Quy định về các sản phẩm không phá rừng là một hành động có chủ ý của châu Âu nhằm ngăn chặn việc tiếp cận thị trường, gây tổn hại cho các hộ nông dân nhỏ và bảo vệ thị trường hạt có dầu trong khu vực vốn không hiệu quả và không thể cạnh tranh với giá dầu cọ", phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Hàng hóa Malaysia Fadillah Yusof cho biết vào cuối tháng 12, theo Reuters.
Gần 1/3 người Indonesia và 1/5 người Malaysia không tin tưởng EU vì họ cho rằng quan điểm của EU về môi trường và biến đổi khí hậu có thể đe dọa lợi ích của mình, theo một cuộc khảo sát gần đây về ý kiến "tinh hoa" của Viện ISEAS-Yusof Ishak
Tuy nhiên, EU vẫn là một nhà đầu tư tích cực trong các dự án bảo tồn ở cả hai quốc gia. Đa dạng hóa thương mại là thông điệp chính trong chuyến công du Đông Nam Á của Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier. Ông đã đến Malaysia vào thứ Năm và thăm các dự án bảo tồn ở Sarawak ở Đông Malaysia, nơi có những khu rừng mưa nhiệt đới là nơi sinh sống của nhiều loài đa dạng và độc đáo.
(DW)