Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thu hút sự đón nhận, hoan nghênh của đông đảo các nhà khoa học, trí thức trong cả nước, trong đó có các nữ trí thức.
Các nhà khoa học nữ và nữ trí thức tin tưởng Chiến lược sẽ thúc đẩy phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam, trong đó có nữ trí thức, trở thành nguồn lực trí tuệ trọng yếu, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững và thịnh vượng.
Tạp chí Phụ nữ Mới đã trao đổi với GS.TS. Ngô Thị Phương Lan, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh và GS.TS. Nguyễn Thị Lang, Viện trưởng Viện nghiên cứu Nông nghiệp Công nghệ cao Đồng bằng Sông Cửu Long.
Bước đi mang tầm nhìn chiến lược của Chính phủ trong việc khơi dậy và phát huy tiềm năng của lực lượng trí thức Việt Nam
PV: Theo các GS, việc thực hiện Chiến lược này sẽ góp phần thúc đẩy phát triển đội ngũ trí thức của Việt Nam nói chung, nữ trí thức Việt Nam nói riêng như thế nào?
GS.TS. Ngô Thị Phương Lan: Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2030, tầm nhìn 2045 thể hiện một bước đi mang tầm nhìn chiến lược của Chính phủ trong việc khơi dậy và phát huy tiềm năng của lực lượng trí thức – những người giữ vai trò kiến tạo tri thức, dẫn dắt đổi mới sáng tạo và góp phần hình thành bản sắc tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên hội nhập.
Đặc biệt, đối với nữ trí thức, chiến lược mở ra những cơ hội phát triển công bằng hơn trong tiếp cận tri thức mới, thăng tiến nghề nghiệp và tham gia vào các lĩnh vực nghiên cứu, công nghệ, quản lý – những nơi vốn trước đây còn có khoảng trống về giới. Khi chính sách được triển khai đồng bộ, nữ trí thức Việt Nam không chỉ đóng góp bằng năng lực chuyên môn mà còn bằng bản lĩnh lãnh đạo, sự mềm mại và kiên định – những giá trị giúp lan tỏa tinh thần nhân văn trong sự phát triển đất nước.
![]() |
| GS.TS. Ngô Thị Phương Lan, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh |
GS.TS. Nguyễn Thị Lang: Tôi hoan nghênh việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nhận thức rõ vai trò then chốt của đội ngũ trí thức trong đổi mới sáng tạo hiện nay cần có sự chủ động triển khai các giải pháp đồng bộ về cơ chế, chính sách và môi trường làm việc; qua đó thể hiện cam kết lâu dài trong xây dựng đội ngũ trí thức chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
PV: Trong chiến lược đề ra các mốc thời gian và các chỉ tiêu rất cụ thể. Ngay trong Quý I/2026, ban hành kế hoạch hành động, triển khai các nhiệm vụ, giải pháp, chỉ tiêu phát triển đội ngũ trí thức. Các GS có nhận định gì về 5 nhóm giải pháp chủ yếu mà Chiến lược đưa ra? Các nhóm giải pháp này sẽ có tác động tích cực đối với sự phát triển đội ngũ nữ trí thức của Việt Nam như thế nào ạ?
GS.TS. Ngô Thị Phương Lan: Tôi đánh giá cao tính toàn diện và khả thi của 5 nhóm giải pháp Chính phủ đã đề ra, bởi chúng bao quát từ hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực và môi trường làm việc của trí thức, đến đổi mới cơ chế trọng dụng và tôn vinh người tài. Đặc biệt, đối với nữ trí thức, các nhóm giải pháp này có tác động tích cực ở ba phương diện chính: Thứ nhất, mở rộng cơ hội phát triển thông qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số và lãnh đạo. Thứ hai, cải thiện môi trường làm việc – hướng đến sự công bằng, tôn trọng và khích lệ sáng tạo. Thứ ba, tăng cường chính sách trọng dụng và vinh danh đóng góp của nữ trí thức, giúp họ tự tin khẳng định vị thế trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, xã hội. Nếu được triển khai bài bản, đây sẽ là đòn bẩy mạnh mẽ để Việt Nam hình thành đội ngũ trí thức có chất lượng, trong đó nữ trí thức trở thành lực lượng tiên phong của thời kỳ chuyển đổi số và phát triển bền vững.
![]() |
| GS.TS. Nguyễn Thị Lang, Viện trưởng Viện nghiên cứu Nông nghiệp Công nghệ cao Đồng bằng Sông Cửu Long |
GS.TS. Nguyễn Thị Lang: Theo tôi, nhóm giải pháp thứ nhất về thể chế, quản trị đây là tất yếu khi xây dựng một chính sách cần phải tuân thủ thể chế và pháp lý của nước và địa phương. Quan trọng nhất là có kinh phí đề tài dự án cho các nhà khoa học.
Nhóm giải pháp thứ hai về đào tạo và bồi dưỡng trí thức, theo tôi đào tạo nguồn nhân lực là ưu tiên số một trong chiến lược phát triển lâu dài, đáp ứng yêu cầu của sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn mới. Để đảm bảo quyền tiếp cận và chất lượng giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, điều cần thiết là chính phủ phải tăng cường đầu tư vào giáo dục, cả về phân bổ ngân sách và thực hiện chính sách. Các chương trình giáo dục phải được điều chỉnh để tích hợp các năng lực phù hợp với thị trường việc làm trong tương lai việc làm cho các nhà nghiên cứu. Thiết lập một liên minh vững chắc giữa khu vực công và tư nhân thông qua các quan hệ đối tác hợp tác và các sáng kiến hợp tác.
Theo tôi, nhóm giải pháp thứ ba về trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức có ý nghĩa quan trọng vì tôn trọng, đãi ngộ trí thức là việc xã hội, tổ chức hoặc Nhà nước ghi nhận đúng vai trò, giá trị và đóng góp của đội ngũ trí thức, đồng thời tạo điều kiện vật chất và tinh thần xứng đáng để họ yên tâm sáng tạo và cống hiến. Lắng nghe, tiếp thu ý kiến khoa học một cách nghiêm túc. Đánh giá năng lực, sản phẩm nghiên cứu dựa trên chất lượng, không hình thức. Bảo đảm tự do học thuật, tôn trọng khác biệt trong tư duy khoa học.
Về nhóm giải pháp thứ tư, toàn cầu hóa trí thức, theo tôi, chính phủ nên khuyến khích trí thức VN nên làm việc và giao lưu nước ngoài. Giúp cho kỹ năng sống của cán bộ khoa học và kinh phí trong nghiên cứu và cả quen biết nhiều đồng nghiệp các nước.
Về nhóm giải pháp cuối cùng chiến lược nêu ra là xây dựng bộ tiêu chí đánh giá rõ ràng. Theo tôi, đánh giá không chỉ dựa vào bằng cấp mà dựa vào đầu ra và tác động đến công việc của cá nhân đóng góp: Năng lực chuyên môn (trình độ, cập nhật tri thức mới), kết quả nghiên cứu/ứng dụng (bài báo, sáng chế, mô hình thực tiễn). Khả năng đổi mới sáng tạo, đóng góp cho tập thể, cộng đồng, địa phương. Đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm. Cần xây dựng tiêu chí rõ ràng, gắn với mục tiêu công việc, áp dụng đánh giá đa chiều, biện chứng minh bạch. Kết quả đánh giá phải gắn với đãi ngộ, sử dụng và đào tạo, nhằm phát huy tốt nhất năng lực và đóng góp của đội ngũ trí thức sau này.
Phong trào "Trí thức Việt Nam thời kỳ chuyển đổi số" nên được triển khai theo hướng kết nối – sáng tạo – cống hiến
PV: Trong chiến lược có gợi mở về việc xây dựng và lan tỏa phong trào "Trí thức Việt Nam thời kỳ chuyển đổi số". Các GS.TS. có ý kiến gì về việc triển khai phong trào này?
GS.TS. Ngô Thị Phương Lan: Đây là một sáng kiến rất có ý nghĩa, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới và định hướng chuyển đổi số quốc gia. Tôi cho rằng phong trào này nên được triển khai theo hướng kết nối – sáng tạo – cống hiến. Kết nối giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp và cơ quan quản lý để tri thức không chỉ nằm trong phòng thí nghiệm, mà trở thành giá trị thực tiễn cho xã hội. Sáng tạo trong việc ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn… vào giảng dạy, nghiên cứu và quản trị đại học. Cống hiến bằng những giải pháp cụ thể phục vụ cộng đồng, phát triển đất nước và nâng cao vị thế trí thức Việt Nam trên trường quốc tế. Nữ trí thức, với lợi thế linh hoạt và khả năng thích ứng cao, hoàn toàn có thể trở thành những hạt nhân lan tỏa trong phong trào này – góp phần tạo nên diện mạo mới của trí thức Việt Nam trong thời đại số.
![]() |
| Theo GS.TS. Ngô Thị Phương Lan xây dựng và lan tỏa phong trào "Trí thức Việt Nam thời kỳ chuyển đổi số" là một sáng kiến rất có ý nghĩa, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới và định hướng chuyển đổi số quốc gia. |
GS.TS. Nguyễn Thị Lang: Mọi người có xu hướng sống trong một thế giới “kỹ thuật số” đã trở nên thiết yếu trong xã hội ngày nay, tác động đáng kể đến thái độ, hành vi và quan điểm trên tất cả các nhóm tuổi và trình độ giáo dục. Công nghệ đã thúc đẩy các mối liên hệ chặt chẽ hơn giữa mọi người, liên kết các nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi văn hóa và làm cho cuộc sống dễ dàng hơn. Chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu, tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với đội ngũ trí thức, chuyển đổi số không chỉ là yêu cầu thích ứng, mà còn là trách nhiệm và cơ hội để khẳng định vai trò tiên phong trong phát triển đất nước. Chuyển đổi số giúp trí thức nâng cao hiệu quả nghiên cứu, đổi mới phương thức lao động trí tuệ, rút ngắn khoảng cách giữa tri thức và thực tiễn. Thông qua công nghệ số, các kết quả nghiên cứu được lan tỏa nhanh hơn, phục vụ kịp thời cho sản xuất, quản lý và đời sống xã hội. Đặc biệt, trong tiến trình xây dựng nền kinh tế tri thức và xã hội số, đội ngũ trí thức giữ vai trò nòng cốt trong sáng tạo, chuyển giao và ứng dụng khoa học – công nghệ. Việc chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số chính là chìa khóa để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Vì vậy, mỗi nhà khoa học trí thức cần không ngừng học tập, đổi mới tư duy, nâng cao năng lực số; đồng thời các cấp, các ngành cần có cơ chế, chính sách phù hợp để tạo điều kiện cho trí thức phát huy tối đa năng lực trong môi trường số.
Đối với tôi làm nông nghiệp, chuyển đổi số không chỉ là yêu cầu thích ứng, mà còn là con đường để đưa khoa học – công nghệ đi sâu vào thực tiễn sản xuất. Ngày nay, khi thực hiện đề tài khoa học tôi phải đã ứng dụng dữ liệu số, trí tuệ nhân tạo trong nghiên cứu và dự báo thời tiết, sâu bệnh, năng suất cây lúa cho nông dân. Những công cụ này giúp nâng cao độ chính xác trong tư vấn kỹ thuật, góp phần giảm rủi ro và chi phí cho người nông dân. Bên cạnh đó, các quy trình canh tác, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật được số hóa dưới dạng học liệu điện tử, video, nền tảng trực tuyến. Nhờ vậy, tri thức khoa học không còn nằm trong phòng thí nghiệm mà đến nhanh hơn, rộng hơn với nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp. Chuyển đổi số còn thể hiện rõ trong việc ứng dụng công nghệ canh tác chính xác như cảm biến, bản đồ số, thiết bị drone trong gieo sạ và phân bón… Trí thức trong lĩnh vực nông nghiệp đóng vai trò nòng cốt trong nghiên cứu, chuyển giao và hướng dẫn sử dụng các công nghệ này, giúp sản xuất an toàn, tiết kiệm và thân thiện với môi trường. Đặc biệt, thông qua hệ thống truy xuất nguồn gốc, mã QR và các nền tảng số, đội ngũ trí thức đã góp phần xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế. Có thể khẳng định rằng, chuyển đổi số đang giúp đội ngũ trí thức nông nghiệp phát huy vai trò cầu nối giữa khoa học, người nông dân và doanh nghiệp.
PV: Các GS có mong muốn, đóng góp ý kiến gì để việc triển khai Chiến lược sát với thực tiễn của Việt Nam và đạt hiệu quả cao?
GS.TS. Ngô Thị Phương Lan: Từ góc độ cơ sở giáo dục đại học – nơi đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – tôi cho rằng để Chiến lược thực sự đi vào cuộc sống, cần tập trung vào bốn hướng lớn: Một là, gắn chiến lược quốc gia với chiến lược phát triển của từng ngành, từng cơ sở giáo dục và nghiên cứu. Hai là, tăng đầu tư cho hạ tầng tri thức số – cơ sở dữ liệu khoa học, học liệu mở, nền tảng kết nối trí thức trong và ngoài nước. Ba là, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong trường đại học, nơi trí thức, đặc biệt là nữ trí thức, có thể phát triển ý tưởng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Bốn là, đẩy mạnh chính sách tôn vinh và đãi ngộ thỏa đáng, để trí thức yên tâm cống hiến, xem sáng tạo là niềm tự hào và trách nhiệm với quốc gia. Tôi tin rằng với tầm nhìn chiến lược của Chính phủ, sự đồng lòng của các bộ, ngành, địa phương và sự chủ động của các cơ sở đào tạo – đội ngũ trí thức Việt Nam, trong đó có nữ trí thức, sẽ trở thành nguồn lực trí tuệ trọng yếu, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững và thịnh vượng.
![]() |
| GS.TS. Nguyễn Thị Lang cho rằng, cần tập hợp và đoàn kết các nữ trí thức, tham gia nghiên cứu và trao đổi khoa học, phát triển kỹ năng, hỗ trợ hội nhập cộng đồng và thúc đẩy hợp tác khu vực và quốc tế |
GS.TS. Nguyễn Thị Lang: Phát triển nguồn nhân lực trí thức bao gồm nhiều khía cạnh liên quan đến tiềm năng con người, bao gồm giáo dục, đào tạo, sức khỏe, kỹ năng, kinh nghiệm, cũng như thái độ và giá trị của cá nhân. Theo tôi, cần tập hợp và đoàn kết các nữ trí thức, tham gia nghiên cứu và trao đổi khoa học, phát triển kỹ năng, hỗ trợ hội nhập cộng đồng và thúc đẩy hợp tác khu vực và quốc tế. Ưu tiên tính toàn diện trong phát triển nguồn nhân lực trí thức. Điều cần thiết là các chương trình và chính sách phải được xây dựng theo cách đảm bảo quyền tiếp cận công bằng cho các cá nhân đến từ các tầng lớp xã hội, kinh tế và địa lý khác nhau. Việc lồng ghép các vấn đề môi trường và xã hội vào chương trình giảng dạy phát triển nguồn nhân lực và phát triển các kỹ năng liên quan đến phát triển bền vững là rất quan trọng để áp dụng cách tiếp cận bền vững trong phát triển nguồn nhân lực cho việc làm cho đội ngũ trí thức. Cần thiết phải tăng cường hợp tác giữa các lĩnh vực học thuật, nghiên cứu và công nghiệp thông qua các sáng kiến thực tập, nghiên cứu ứng dụng và liên doanh. Điều này sẽ đảm bảo tính phù hợp của giáo dục với nhu cầu của thị trường lao động và đẩy nhanh quá trình tiếp thu các công nghệ mới.
PV: Xin trân trọng cảm ơn các GS.TS đã trả lời phỏng vấn của Tạp chí Phụ nữ Mới!




















































Phó Thủ tướng phê duyệt Chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến 2030, tầm nhìn 2045
Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng vừa phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2030, tầm nhìn 2045, xác lập trí thức là lực lượng then chốt của tăng trưởng mới.