Phó Thủ tướng phê duyệt Chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến 2030, tầm nhìn 2045

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng vừa phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2030, tầm nhìn 2045, xác lập trí thức là lực lượng then chốt của tăng trưởng mới.
Ảnh minh họa: ITN
Ảnh minh họa: ITN

Theo Quyết định số 2711/QĐ-TTg do Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng ký ban hành, Chiến lược hướng tới xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam có trình độ cao, cơ cấu hợp lý, đủ năng lực dẫn dắt lực lượng sản xuất hiện đại và trở thành động lực then chốt để đất nước đạt các mốc phát triển quan trọng: trở thành quốc gia đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030, và quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược toàn cầu ngày càng gay gắt, Chiến lược khẳng định rõ vai trò của trí thức không chỉ là nguồn nhân lực chất lượng cao, mà còn là lực lượng dẫn dắt chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, tham gia giải quyết các thách thức khu vực và toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, y tế cộng đồng và phát triển bền vững.

Khác với cách tiếp cận thiên về mở rộng quy mô trong các giai đoạn trước, Chiến lược lần này nhấn mạnh đồng thời ba trụ cột: chất lượng, cơ cấu và hiệu quả đóng góp của đội ngũ trí thức. Mục tiêu không dừng lại ở việc tăng số lượng người có bằng cấp cao, mà hướng tới xây dựng một lực lượng trí thức thực sự có năng lực sáng tạo, khả năng kết nối tri thức và tham gia trực tiếp vào chuỗi giá trị kinh tế – xã hội.

Giai đoạn đến năm 2030 được xác định là bước tăng tốc quan trọng để tạo nền tảng cho tầm nhìn 2045. Theo đó, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển đội ngũ trí thức cả về quy mô lẫn chất lượng, đặc biệt chú trọng các lĩnh vực then chốt như khoa học cơ bản, kỹ thuật – công nghệ, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chiến lược và các ngành có khả năng tạo giá trị gia tăng lớn.

Một trong những chỉ tiêu đáng chú ý là đến năm 2030, nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo toàn thời gian đạt 12 người trên một vạn dân. Đây được xem là lực lượng sản xuất đặc biệt, giữ vai trò nòng cốt trong việc hình thành và vận hành nền kinh tế tri thức.

Chiến lược cũng đặt mục tiêu nâng tỷ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ lên ít nhất 35%. Trong số này, sẽ có tối thiểu 6.000 nghiên cứu sinh và khoảng 20.000 người theo học các chương trình đào tạo tài năng. Song song với đó, tỷ lệ lao động trí thức trong các ngành công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp chiến lược dự kiến tăng lên mức 25%.

Yếu tố công bằng và bao trùm được lồng ghép rõ nét trong các chỉ tiêu phát triển. Chiến lược yêu cầu bảo đảm tối thiểu 40% phụ nữ và người thuộc các nhóm thiểu số tham gia các vị trí làm việc, nghiên cứu, giảng dạy và lãnh đạo trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây là bước điều chỉnh quan trọng nhằm khai thác hiệu quả hơn nguồn lực xã hội và thu hẹp các khoảng cách tồn tại lâu nay.

Một điểm nhấn khác của Chiến lược là định hướng thu hút và kết nối trí thức Việt Nam ở nước ngoài. Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu thu hút khoảng 1.000 lượt trí thức tiêu biểu đang làm việc tại nước ngoài tham gia trao đổi học giả, hợp tác nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ trong nước thông qua các hình thức làm việc linh hoạt.

Cùng với đó, các mạng lưới kết nối chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài sẽ được xây dựng theo từng lĩnh vực trọng tâm, tạo không gian hợp tác dài hạn thay vì các hoạt động đơn lẻ, ngắn hạn như trước.

Trong khu vực công, Chiến lược đặc biệt chú trọng đến việc trẻ hóa và nâng cao năng lực đội ngũ. Ít nhất 50% trí thức dưới 45 tuổi đang làm việc trong khu vực nhà nước sẽ được đào tạo, bồi dưỡng thông qua các chương trình nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý và lãnh đạo, nhằm hình thành lớp cán bộ trí thức có tư duy hiện đại và khả năng thích ứng với môi trường quản trị mới.

Đến năm 2045, Chiến lược hướng tới xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam phát triển lớn mạnh, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, thuộc nhóm hàng đầu trong khu vực và tiệm cận trình độ các nước phát triển. Lực lượng này sẽ giữ vai trò dẫn dắt các tiến trình chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế, trở thành động lực then chốt để Việt Nam đạt mục tiêu quốc gia phát triển, thu nhập cao.

Quan trọng hơn, Chiến lược đặt mục tiêu hình thành hệ sinh thái trí thức quốc gia, trong đó có sự kết nối chặt chẽ giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa cộng đồng trí thức trong nước và quốc tế. Hệ sinh thái này không chỉ tạo điều kiện cho tri thức được sản sinh, lan tỏa và ứng dụng, mà còn bảo đảm môi trường để trí thức được ghi nhận, trọng dụng và phát triển lâu dài.

Để hiện thực hóa các mục tiêu đặt ra, Chiến lược xác định năm nhóm giải pháp chủ yếu. Nhóm thứ nhất tập trung vào hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả quản trị phát triển đội ngũ trí thức, bảo đảm sự thống nhất từ trung ương đến địa phương.

Nhóm giải pháp thứ hai hướng tới tạo nguồn nhân lực và xây dựng hệ sinh thái phát triển trí thức, bao gồm đổi mới đào tạo, bồi dưỡng, thúc đẩy văn hóa học tập suốt đời, cải thiện môi trường nghiên cứu làm việc và tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp với viện nghiên cứu, trường đại học.

Nhóm thứ ba nhấn mạnh chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, coi đây là yếu tố then chốt để giữ chân và phát huy hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao.

Nhóm thứ tư tập trung vào toàn cầu hóa trí thức, tạo điều kiện để trí thức Việt Nam vươn ra thế giới, đồng thời thu hút trí thức quốc tế đến làm việc, nghiên cứu và sinh sống tại Việt Nam.

Nhóm cuối cùng là xây dựng hệ thống đo lường, đánh giá hiệu quả phát triển đội ngũ trí thức, nhằm bảo đảm các chính sách được triển khai thực chất, có thể theo dõi và điều chỉnh kịp thời.

Quyết định cũng giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương và tổ chức liên quan. Trong Quý I/2026, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, địa phương, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam phải ban hành kế hoạch hành động để triển khai Chiến lược theo lĩnh vực quản lý.

Bộ Khoa học và Công nghệ được giao chủ trì xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả phát triển đội ngũ trí thức, hoàn thành trong Quý III/2026, đồng thời xây dựng Hệ thống dữ liệu đội ngũ trí thức Việt Nam trong Quý II/2026, bảo đảm cập nhật thường xuyên theo ngành, lĩnh vực.

Bộ Công an phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện các quy định về xuất nhập cảnh, thị thực và cư trú theo hướng thuận lợi hơn cho trí thức, nhà khoa học và chuyên gia quốc tế đến làm việc tại Việt Nam.

Trong khi đó, các cơ quan truyền thông chủ lực như Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam được giao nhiệm vụ đẩy mạnh tuyên truyền về vai trò và đóng góp của đội ngũ trí thức, lan tỏa tri thức đại chúng và thúc đẩy phong trào “Trí thức Việt Nam thời kỳ chuyển đổi số”.

Với tầm nhìn dài hạn và cách tiếp cận hệ thống, Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức được kỳ vọng sẽ tạo bước chuyển căn bản trong việc phát huy nguồn lực trí tuệ, qua đó góp phần định hình vị thế mới của Việt Nam trong giai đoạn phát triển tiếp theo.

PV

Chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ trí thức khoa học công nghệ

Chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ trí thức khoa học công nghệ

Bộ Khoa học và Công nghệ vừa tổ chức Hội thảo góp ý dự thảo Chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.