Từ khái niệm xa vời đến kim chỉ nam phát triển bền vững
Hơn 130 doanh nghiệp vừa tham dự hội thảo “Hướng dẫn và hỗ trợ tài chính cho việc thực hiện ESG để thâm nhập thị trường EU” do HVNCLC tổ chức tại TP.HCM. Sự kiện không chỉ cung cấp thông tin mà còn là diễn đàn để doanh nghiệp nhìn rõ vị thế, thấu hiểu yêu cầu quốc tế và tìm giải pháp thực hành ESG (là viết tắt của ba tiêu chí cốt lõi: Môi trường (Environmental), Xã hội (Social) và Quản trị (Governance), từ đó vừa vượt qua rào cản, vừa mở ra cơ hội tiếp cận vốn bền vững và nâng tầm cạnh tranh toàn cầu.
Bà Nguyễn Cẩm Chi, Giám đốc khối tư vấn phát triển bền vững, Công ty TNHH Tư vấn và Quản lý MCG, chia sẻ rằng ESG lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo của Liên Hợp Quốc từ năm 2004. Đến nay, tổng tài sản ESG đã lên tới con số khổng lồ 41.000 tỷ USD. Con số này không chỉ là một thống kê khô khan mà là minh chứng hùng hồn cho thấy ESG không còn là một khái niệm xa vời mà đã đi sâu vào từng doanh nghiệp, từng chiến lược kinh doanh trên toàn cầu, trở thành một yếu tố bắt buộc để tồn tại và phát triển.
Khi bắt đầu hành trình thực hành ESG, câu hỏi đầu tiên mà doanh nghiệp Việt thường đặt ra là: có lợi ích gì? Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Cẩm Chi, lợi ích đầu tiên và rõ ràng nhất lại chính là việc vượt qua những rào cản tưởng chừng như không thể. Bà Chi đã chỉ ra ba rào cản lớn mà doanh nghiệp Việt đang phải đối mặt:
Rào cản xanh đây là một trong những thách thức lớn nhất. Các thị trường nhập khẩu lớn như châu Âu đang dựng lên những “rào cản xanh” rất kiên quyết. Họ lập luận rằng, nếu các quốc gia phát triển làm rất tốt việc giảm phát thải nhưng các nơi khác làm không tốt thì vấn đề phát thải carbon toàn cầu vẫn không được giải quyết triệt để. Điều này buộc các doanh nghiệp muốn xuất khẩu phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về môi trường, từ quy trình sản xuất đến nguyên liệu đầu vào.
![]() |
| Bà Nguyễn Cẩm Chi, Giám đốc khối tư vấn phát triển bền vững, Công ty TNHH Tư vấn và Quản lý MCG |
Một ví dụ điển hình là EUDR (Quy định Chống Phá rừng của EU) đang gây khó khăn đặc biệt cho các doanh nghiệp gỗ ở Việt Nam. Bà Chi chỉ ra rằng, đến 50% hộ trồng cà phê ở Việt Nam chưa có hồ sơ địa chính, chưa thể truy xuất được vùng trồng, khiến họ gặp trở ngại lớn khi muốn thâm nhập thị trường EU.
Không chỉ châu Âu, các thị trường khác như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore cũng đang đưa ra các tiêu chí xanh rất gắt gao. Ngay cả khi tưởng rằng phát triển bền vững không phải vấn đề dưới một số chính quyền, thì thực tế các doanh nghiệp toàn cầu vẫn phải lựa chọn kỹ các nhà cung cấp dựa trên tiêu chí ESG để duy trì chuỗi cung ứng bền vững của mình.
Một khó khăn lớn nữa là thiếu dữ liệu. Hiện tại, có nhiều phần mềm quản lý ESG được đưa vào Việt Nam, thậm chí doanh nghiệp còn được mời sử dụng miễn phí. Tuy nhiên, không phải phần mềm nào cũng sử dụng được, bởi còn phải cân nhắc xem nó có phù hợp với các tiêu chí và thực tiễn của Việt Nam. Hơn nữa, mặc dù ESG hay phát triển bền vững từng bị cho là chỉ dành cho doanh nghiệp lớn, bà Chi khẳng định chính doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có nhiều thuận lợi hơn nhờ cơ cấu quản trị linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh.
Vấn đề cốt lõi, theo bà, nằm ở nhận thức về tầm quan trọng của ESG. “Mọi người hay nói “ESG mang lại lợi nhuận dài hạn, nhưng tôi không thấy. Việc đầu tiên, các bạn phải thấy, nếu không có ESG thì các bạn không xuất khẩu được chứ chưa cần nói gì dài hạn về câu chuyện tiết kiệm điện, tiết kiệm năng lượng mà doanh nghiệp thực hiện ESG đạt được” – bà Cẩm Chi nhấn mạnh, chỉ ra rằng ESG không phải là một khoản đầu tư tùy chọn mà là điều kiện tiên quyết để tồn tại trong thị trường toàn cầu.
Tuy nhiên, đi cùng rủi ro luôn là cơ hội. “Khi tất cả mọi người đều nói khó quá, không làm được thì khi mình làm được mình sẽ chiếm được lợi thế”. Bà cũng lưu ý rằng doanh nghiệp cần cân nhắc chi phí đầu tư để lựa chọn những tiêu chí phù hợp, thay vì ồ ạt chạy theo tất cả các tiêu chí. Đầu tư ban đầu không chỉ là đầu tư chứng chỉ mà còn là đầu tư vào xây dựng nhà xưởng, quy trình sản xuất thân thiện hơn.
Với khung khổ pháp lý vừa được nhà nước ban hành và đang dần hoàn thiện, doanh nghiệp Việt hiện có rất nhiều thuận lợi trong việc thực hành và đặc biệt là tiếp cận các nguồn hỗ trợ tài chính cho ESG. Tóm lại, ba điều doanh nghiệp cần lưu ý để vững bước trên con đường ESG là: kiến thức, tài chính và dữ liệu.
Hướng đi nào cho doanh nghiệp Việt trong kỷ nguyên xanh
Theo bà Chu Thị Kim Thanh, Phó Giám đốc Điều hành Công ty CP PRO Việt Nam, Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam, EPR là một cơ chế chính sách môi trường buộc nhà sản xuất phải gánh vác trách nhiệm với toàn bộ vòng đời của sản phẩm. Điều này có nghĩa là trách nhiệm không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất hay tiêu dùng mà còn kéo dài đến giai đoạn cuối khi sản phẩm và bao bì trở thành chất thải. EPR vì vậy đặt doanh nghiệp vào vị thế không thể thờ ơ với môi trường mà phải chủ động gắn kết sự tồn tại của mình với trách nhiệm bảo vệ hành tinh.
Trên thế giới, EPR đã được nhiều quốc gia áp dụng từ rất lâu. Tại châu Âu, cơ chế này có mặt từ thập niên 1980. Mỹ và Canada hiện vận hành khoảng một trăm mô hình khác nhau. Nhật Bản và Hàn Quốc đã xây dựng khung pháp lý vững chắc hơn hai thập niên qua, trong khi Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia cũng đang triển khai dần từng bước. Việt Nam tham khảo nhiều từ mô hình của Hàn Quốc và Đài Loan, cho thấy việc học hỏi những kinh nghiệm quý giá từ các quốc gia đi trước đang trở thành định hướng quan trọng để xây dựng hành lang pháp lý chặt chẽ và hiệu quả.
![]() |
| Bà Chu Thị Kim Thanh, Phó Giám đốc Điều hành Công ty CP PRO Việt Nam, Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam |
Tại Việt Nam, EPR từng được biết đến nhưng chỉ với tinh thần khuyến khích. Bước ngoặt diễn ra từ năm 2020 khi Luật Bảo vệ Môi trường chính thức đưa EPR trở thành quy định bắt buộc. Luật đã xác định rõ hai loại trách nhiệm cho doanh nghiệp. Trách nhiệm tái chế sản phẩm và bao bì áp dụng đối với các loại có khả năng tái chế.
Trách nhiệm xử lý chất thải áp dụng cho các sản phẩm và bao bì khó hoặc không thể tái chế. Dù vậy, không phải tất cả các doanh nghiệp đều phải tuân thủ. Các trường hợp sản xuất hay nhập khẩu để xuất khẩu, tạm nhập tái xuất, hoặc phục vụ mục đích nghiên cứu và thử nghiệm sẽ được miễn trừ. Ngoài ra, doanh nghiệp có doanh thu bán thuốc bảo vệ thực vật hoặc sản phẩm trong danh mục xử lý chất thải dưới 30 tỷ đồng mỗi năm cũng không phải thực hiện.
Đối với những doanh nghiệp thuộc diện phải thực hiện, quy định đưa ra hai lựa chọn linh hoạt. Họ có thể tự tổ chức tái chế thông qua việc trực tiếp thực hiện, thuê đơn vị khác hoặc ủy quyền cho trung gian. Hoặc doanh nghiệp có thể đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam. Mức phí được tính tùy loại vật liệu, dựa trên tỷ lệ phần trăm doanh thu hoặc khối lượng và số lượng sản phẩm lưu hành trên thị trường. Cách tiếp cận này tạo sự linh hoạt cần thiết nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trách nhiệm môi trường được thực thi.
Thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp gặp phải khi thực hiện ESG và EPR chính là tài chính. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa lo ngại rằng chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, trong khi khả năng thu hồi vốn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, những thông tin được chia sẻ tại hội thảo gần đây đã mở ra một bức tranh tươi sáng hơn. Ông Abhishek Mittal, Giám đốc điều hành Quỹ Aaviskaar Capital, đã giới thiệu về xu hướng đầu tư tác động. Đây là dòng vốn có mục tiêu kép, vừa tạo lợi nhuận tài chính vừa mang lại tác động tích cực cho xã hội và môi trường.
Theo ông Mittal, tổng tài sản được quản lý của ngành quản lý tài sản toàn cầu năm 2023 đạt 128 triệu tỷ USD, trong đó đầu tư tác động mới chỉ chiếm khoảng 0,4%. Dù vậy, trong vòng 5 năm qua, quy mô của lĩnh vực này đã tăng trưởng đến 14%. Tính đến năm 2024, tổng tài sản của các nhà đầu tư tác động đạt 490 tỷ USD, trong đó có hơn 6 tỷ USD được dành riêng cho các thị trường mới nổi ở Đông Nam Á. Việt Nam được đánh giá là một điểm đến đầy tiềm năng trong dòng chảy vốn bền vững này.
![]() |
| Ông Abhishek Mittal, Giám đốc điều hành Quỹ Aaviskaar Capital. |
Điều đáng chú ý là các quỹ đầu tư tác động ưu tiên mạnh mẽ cho những dự án liên quan đến biến đổi khí hậu. Có đến 69% tập trung vào mục tiêu giảm khí nhà kính và 67% vào khả năng thích ứng. Chỉ 9% tài sản không gắn với các mục tiêu khí hậu. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt nếu có các dự án về năng lượng tái tạo, năng lượng mặt trời, bao bì sinh học hay logistics xanh sẽ có cơ hội rất lớn trong việc thu hút vốn quốc tế.
Quỹ Aaviskaar Capital đã có hơn hai thập niên kinh nghiệm trong việc đầu tư mạo hiểm vào doanh nghiệp ở giai đoạn non trẻ, hiện quản lý tám quỹ với tài sản trên 500 triệu USD và đã có mặt tại Indonesia và Bangladesh. Ông Mittal khẳng định quỹ đang đặc biệt quan tâm đến thị trường Việt Nam. Mục tiêu của họ là mở khóa tiềm năng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời đồng hành lâu dài sau khi đầu tư.
Ba lĩnh vực trọng tâm mà quỹ ưu tiên bao gồm nông nghiệp và thực phẩm với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản tươi hoặc chế biến theo phương pháp bền vững, sản phẩm hữu cơ và thương mại công bằng. Thứ hai là các giải pháp chuỗi cung ứng với doanh nghiệp cung cấp bao bì thân thiện môi trường, logistics xanh, kho lạnh tiết kiệm năng lượng và sản xuất sử dụng năng lượng tái tạo. Thứ ba là doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm giảm thải năng lượng, tối ưu nguyên liệu, đặc biệt trong ngành dệt may và da giày gắn với tái chế và quy trình sản xuất bền vững.
Để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam, Aaviskaar Capital dự kiến sẽ tổ chức một khóa đào tạo miễn phí về xây dựng năng lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quý cuối năm 2025 hoặc đầu năm 2026. Khóa học dự kiến chọn tối đa 30 doanh nghiệp để đào tạo chuyên sâu nhằm giúp họ tiếp cận vốn từ các quỹ tài chính bền vững quốc tế. Đây là cơ hội quý báu để các doanh nghiệp không chỉ nâng cao kiến thức mà còn trực tiếp kết nối với nhà đầu tư toàn cầu.
Có thể thấy rằng ESG và EPR không còn là lựa chọn xa xỉ của một nhóm nhỏ doanh nghiệp mà đã trở thành yếu tố sống còn, định hình lại phương thức cạnh tranh và kinh doanh trong kỷ nguyên mới. Với doanh nghiệp Việt Nam, đây vừa là thách thức vừa là cơ hội vàng để khẳng định vị thế, thu hút nguồn vốn mới và bứt phá trên bản đồ kinh tế toàn cầu.



















































Kinh tế xanh sẽ là tiền đề để phát triển bền vững
Phát triển kinh tế xanh để đạt được tăng trưởng xanh đã trở thành xu hướng tất yếu của kinh tế thế giới hiện đại.