Tham dự Hội thảo có TS. Phan Chí Hiếu, Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; bà Nguyễn Thị Thu Hiền, Phó chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; PGS. TS. Trần Thị Minh Thi, Phó Viện trưởng Viện thông tin khoa học xã hội, chủ nhiệm đề tài; GS. TS. Nguyễn Thiện Nhân, cùng nhiều nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực khoa học xã hội, giới và gia đình.
![]() |
Hội thảo công bố kết quả nghiên cứu quốc gia về bình đẳng giới thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia, nhà khoa học. |
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Phan Chí Hiếu, Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho biết, tại Việt Nam, bình đẳng giới theo hướng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ luôn là một trọng tâm ưu tiên nhằm tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn đánh giá cao đóng góp và vai trò của phụ nữ và thực hiện hàng loạt các chính sách cả cấp vĩ mô và vi mô nhằm tăng cường bình đẳng giới, thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và đảm bảo phụ nữ được bảo vệ, chăm sóc và phát triển. Từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến nay, bình đẳng nam nữ và bảo vệ quyền lợi phụ nữ luôn được khẳng định. Quốc hội, Chính phủ đã ban hành rất nhiều Luật và văn bản quy phạm pháp luật có nội dung bảo đảm bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ như Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật Dân số, Luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội... Các bộ luật này cùng với nền tảng văn hóa - xã hội đương đại đang góp phần quan trọng trong việc định hướng giá trị và khuôn mẫu hành vi của gia đình, cộng đồng và xã hội về bình đẳng giới và phụ nữ.
![]() |
TS. Phan Chí Hiếu, Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam phát biểu tại Hội thảo |
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đã dẫn đến nhiều biến chuyển trong đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội. Cùng với đó, quá trình hội nhập, toàn cầu hóa cũng có những tác động không nhỏ đến nhiều khía cạnh, lĩnh vực. Gia đình, với tư cách là tế bào của xã hội cũng đã trải qua những biến đổi không ngừng do tác động của các quá trình xã hội này mang lại. Quy mô, chức năng, quan hệ gia đình và giá trị gia đình đang có những biến đổi mạnh mẽ nhưng gia đình vẫn là một thiết chế, là cốt lõi của hầu hết các hoạt động kinh tế và xã hội.
Ở xã hội trong thời kỳ chuyển đổi từ truyền thống đến hiện đại, từ nông nghiệp sang công nghiệp như Việt Nam hiện nay, gia đình là một thiết chế chịu ảnh hưởng lớn từ thay đổi xã hội. Với vai trò là yếu tố đầu vào quan trọng để triển khai chính sách, thụ hưởng chính sách, việc phân tích những vấn đề đang đặt ra với gia đình, giá trị gia đình và đề xuất các giải pháp xây dựng những giá trị tốt đẹp của gia đình có ý nghĩa quan trọng với xã hội Việt Nam hiện nay. Trải qua hơn 30 năm kể từ đổi mới, cùng với những thay đổi mạnh mẽ trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, gia đình và bình đẳng giới ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi.
![]() |
![]() |
Nhiều chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành về KHXH, giới và gia đình tham gia đóng góp ý kiến quý báu tại Hội thảo. |
Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều công ước quốc tế liên quan đến đảm bảo quyền cho phụ nữ, trong đó có Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) - văn kiện quan trọng và toàn diện nhất về quyền bình đẳng của phụ nữ đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn năm 1979. Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia Đông Nam Á có tốc độ khắc phục cách biệt giới nhanh nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Theo báo cáo Khoảng cách giới toàn cầu mà Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố, trong khu vực ASEAN, mức độ bình đẳng giới của Việt Nam luôn thuộc những nước dẫn đầu. Năm 2022, Việt Nam được xếp hạng thứ 83 về khoảng cách giới. Năm 2023, Việt Nam tăng 11 hạng, xếp hạng 72. Năm 2024, Việt Nam đã thu hẹp khoảng cách giới thêm +0,3 điểm, đạt điểm bình đẳng giới là 71,5% - cao hơn mức trung bình toàn cầu cũng như khu vực Đông Á và Thái Bình Dương và tiếp tục giữ vị trí thứ 72.
Chương trình nghị sự 2030 vì sự Phát triển bền vững, tầm nhìn đến năm 2030 được Liên hiệp quốc thông qua ngày 25/9/2015 cũng đã nêu rõ mục tiêu đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả mọi phụ nữ và trẻ em gái (mục tiêu 5). Đồng thời các mục tiêu còn lại đều được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt có các mục tiêu liên quan đến đảm bảo giáo dục toàn diện, công bằng, thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người (mục tiêu 4), tạo việc làm đầy đủ, hiệu quả, bền vững cho tất cả mọi người (mục tiêu 8).
“Việt Nam vừa ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Việc có một điều tra, nghiên cứu tổng thể về các lĩnh vực của bình đẳng giới làm cơ sở dữ liệu đầu vào cho việc theo dõi, giám sát các chỉ tiêu và thống kê về bình đẳng giới trong giai đoạn 10 năm là rất có ý nghĩa và cần thiết, góp phần trực tiếp vào triển khai các chiến lược kinh tế xã hội của Việt Nam 2021-2030 và tầm nhìn 2045. Đồng thời, hiện nay chúng ta đã và đang nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế về bình đẳng giới, đảm bảo quyền cho phụ nữ và phát triển bền vững cũng như thực thi các quan điểm, định hướng thúc đẩy bình đẳng giới của Đảng và Chính phủ. Việt Nam cần nhận diện thực trạng bình đẳng giới một cách sâu rộng để có giải pháp hiệu quả đạt được các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của Nghị quyết Đại hội XIII. Các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc đến năm 2030 đều có liên quan đến vấn đề phụ nữ, bình đẳng giới, cho thấy thúc đẩy bình đẳng giới, đặc biệt là đảm bảo sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ, có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển cũng như hệ thống thông tin theo dõi, đánh giá về bình đẳng giới”, Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam chia sẻ.
Trên cơ sở kết quả số liệu khảo sát từ 9.094 người tại 6 vùng kinh tế - xã hội trên cả nước, được thực hiện trong năm 2024, Hội thảo “công bố kết quả nghiên cứu quốc gia về bình đẳng giới 2024” là hết sức cần thiết cả về lí luận và thực tiễn, góp phần làm rõ thực trạng quan hệ giới và những tiến bộ của nam giới và phụ nữ trên các lĩnh vực, cho phép phân tích những cơ hội và rào cản, cung cấp căn cứ xây dựng các khuyến nghị chính sách về bình đẳng giới và phát triển kinh tế xã hội phù hợp trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó, hội thảo còn mang ý nghĩa thúc đẩy sự thay đổi trong tư duy xã hội, giúp cộng đồng hiểu rõ hơn về lợi ích của bình đẳng giới đối với sự phát triển bền vững.
![]() |
Phó chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Thu Hiền đánh giá cao những kết quả nghiên cứu đề tài khoa học về bình đẳng giới được công bố tại Hội thảo sáng 11/3/2025. |
Đánh giá cao việc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và các đơn vị liên quan tổ chức Hội thảo để công bố những kết quả nghiên cứu khoa học về bình đẳng giới, Phó chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Thu Hiền cho rằng, Hội thảo được tổ chức hôm nay rất có ý nghĩa khi Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đang được chuẩn bị sơ kết 5 năm; Luật Bình đẳng giới đang chuẩn bị được sửa đổi, bổ sung; và đặc biệt, đây cũng là thời điểm chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
“Tôi đánh giá cao những đóng góp tích cực của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu về phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới cũng như các lĩnh vực khoa học xã hội khác thời gian qua. Bình đẳng giới không chỉ là mục tiêu phát triển quan trọng nhằm thực hiện các cam kết quốc tế, mà còn là một trong những tiêu chí thể hiện rõ việc xây dựng xã hội Việt Nam hạnh phúc, công bằng, tiến bộ, văn minh và bền vững. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, bình đẳng giới đã trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm, gắn liền với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng giới không ngừng được hoàn thiện và cụ thể hóa thành nhiều chương trình, đề án, dự án cấp quốc gia về bình đẳng giới. Nhờ đó, những thành tựu về bình đẳng giới cải thiện rõ rệt, được cộng đồng thế giới ghi nhận và đánh giá cao”, Phó chủ tịch Hội LHPN Việt Nam nói.
Ths. Nguyễn Thị Thu Hiền cũng cho biết thêm: Năm 2024, chỉ số khoảng cách giới của Việt Nam xếp thứ 72 trong số 146 quốc gia tham gia xếp hạng So với năm 2022, thì thứ hạng này đã tăng 11 bậc và tăng 15 bậc so với năm 2021. Việc Việt Nam được bầu vào Hội đồng Chấp hành Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025-2027 với số phiếu tuyệt đối càng khẳng định uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế nói chung, trong lĩnh vực thúc đẩy bình đẳng giới nói riêng.
Tuy nhiên, tình trạng bất bình đẳng giới vẫn tồn tại phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Những thành tựu về bình đẳng giới của Việt nam trong thời gian qua chưa bền vững và dễ dàng bị suy giảm trước nhiều biến động nhanh chóng. Cách mạng công nghiệp 4.0 ngày càng ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống, việc làm của người lao động, nguy cơ bị máy móc, trí tuệ nhân tạo thay thế dẫn đến mất việc làm không chỉ xảy ra đối với lao động giản đơn, ít kỹ năng mà còn đe dọa cả những công việc phức tạp, cần đào tạo chuyên sâu (như: thiết kế đồ họa, tài chính, kế toán, chăm sóc/hỗ trợ khách hàng, kiểm định sản phẩm, thậm chí là thư ký...); những bất ổn xã hội có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên...đặt ra nhiều thách thức đối với việc đảm bảo bình đẳng xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau.
![]() |
GS. TS. Nguyễn Thiện Nhân cũng đóng góp nhiều ý kiến quý báu tại Hội thảo. |
Một trong những khó khăn căn bản lâu nay liên quan đến công tác xây dựng chính sách, luật pháp và quản lý nhà nước về bình đẳng giới là thiếu cơ sở dữ liệu về giới ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Việc thống kê, thông tin, báo cáo về bình đẳng giới chưa đảm bảo do thiếu các công cụ theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thi hành pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch về bình đẳng giới, do đó, thông tin về giới ở nhiều lĩnh vực còn thiếu và chưa đồng bộ.
Trong bối cảnh đó, năm 2023-2024, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam đã chủ trì triển khai đề tài độc lập cấp quốc gia “Nghiên cứu, đánh giá tổng thể về bình đẳng giới phục vụ phát triển bền vững” nhằm xây dựng hệ thống thông tin cơ bản, toàn diện, tổng thể về thực trạng bình đẳng giới; từ đó, đề xuất giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2045 và mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
Đây là một công trình khoa học công phu, nghiêm túc, được khảo sát định lượng trên cỡ mẫu lớn (hơn 9.000 người) tại các địa phương của 6 vùng kinh tế, xã hội trong cả nước về 7 lĩnh vực: Chính trị, lãnh đạo quản lý; Giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ; Kinh tế, lao động- việc làm; Chăm sóc sức khỏe; Gia đình; Phòng ngừa và ứng phó bạo lực trên cơ sở giới; Ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và thảm họa môi trường. Do đó, kết quả nghiên cứu có độ tin cậy cao, có khả năng ứng dụng rộng rãi.
“Các kết quả nghiên cứu này là nguồn dữ liệu đặc biệt quan trọng, làm cơ sở tham chiếu đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII; làm căn cứ để Hội tham mưu đề xuất các vấn đề về công tác phụ nữ, nhất là công tác cán bộ nữ chuẩn bị đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Tôi mong muốn sau Hội thảo công bố những kết quả cơ bản của công trình nghiên cứu hôm nay, Ban Chủ nhiệm đề tài tiếp tục phân tích bộ số liệu của đề tài mang tính chuyên sâu theo nhiều chiều cạnh hơn nữa nhằm khai thác tối đa hiệu quả của đề tài và tăng cường công bố kết quả, góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về vấn đề bình đẳng giới hiện nay ở nước ta”, Phó chủ tịch Hội LHPN Việt Nam bày tỏ tin tưởng những kết quả nghiên cứu về bình đẳng giới được công bố tại Hội thảo sẽ có tác dụng mạnh trong xây dựng các chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới.
![]() |
PGS. TS. Trần Thị Minh Thi, Phó Viện trưởng Viện thông tin khoa học xã hội, chủ nhiệm đề tài trình bày các kết quả nghiên cứu tại Hội thảo. |
Trình bày báo cáo tại Hội thảo, PGS.TS Trần Thị Minh Thi - Chủ nhiệm đề tài cho biết, nghiên cứu này nhằm xây dựng hệ thống thông tin cơ bản về bình đẳng giới, làm cơ sở để đánh giá việc thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam cũng như tình hình bình đẳng giới và phát triển bền vững. Hệ thống nghiên cứu bao gồm 7 lĩnh vực: giáo dục và đào tạo, kinh tế, chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội, gia đình, phòng, chống bạo lực giới, ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai, và quản lý nhà nước. Đây cũng là lần đầu tiên nghiên cứu bạo lực nam giới tại Việt Nam.
Nghiên cứu này vận dụng nhiều lý thuyết khác nhau như lý thuyết về thể chế, văn hóa, phân công lao động giới, kinh tế gia đình, sức khỏe sinh sản, và chuyển đổi số để xây dựng khung lý thuyết phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
“Kết quả khảo sát cho thấy, dù có nhiều tiến bộ, song vẫn còn tồn tại khoảng cách giới trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt ở các ngành khoa học - công nghệ. Trong lao động, phụ nữ tiếp tục đối mặt với rào cản về cơ hội việc làm, vị trí quản lý và mức lương. Các nghiên cứu cũng chỉ ra bất bình đẳng giới trong phân công lao động gia đình và chăm sóc con cái, ảnh hưởng đến khả năng phát triển nghề nghiệp của phụ nữ. Một điểm đáng chú ý là tình trạng bạo lực trên cơ sở giới vẫn phổ biến, đòi hỏi các biện pháp can thiệp mạnh mẽ hơn. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đề cập đến tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai đối với phụ nữ, nhấn mạnh nhu cầu có chính sách hỗ trợ nhóm đối tượng này trong bối cảnh thảm họa môi trường ngày càng gia tăng”, PGS. TS. Trần Thị Minh Thi nói.
![]() |
TS. Phạm Thị Thu Phương, Tổng biên tập Tạp chí Phát triển bền vững vùng trình bày kết quả nghiên cứu tại Hội thảo |
Cũng tại Hội thảo, nhiều chuyên gia, nhà khoa học đã đưa ra nhiều kiến nghị quan trọng nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó có việc hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, nâng cao vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo và cải thiện điều kiện tiếp cận giáo dục, y tế. Nghiên cứu này sẽ cung cấp dữ liệu toàn diện về bình đẳng giới tại Việt Nam, làm cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện các cam kết quốc tế và chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, từ đó tham mưu cho việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, hướng tới một xã hội công bằng và phát triển bền vững hơn.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tặng bằng khen cho 9 nữ trí thức được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tặng bằng khen cho 9 nữ trí thức được công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2023-2024.