Phụ nữ mới

Phê duyệt Chương trình nâng cao năng lực tổ chức nghiên cứu khoa học công lập giai đoạn 2025–2030

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng ký Quyết định 2813/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình nâng cao năng lực các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công lập, nhằm hiện đại hóa hệ thống, nâng cao chất lượng, hiệu quả đổi mới sáng tạo quốc gia.
Phê duyệt Chương trình nâng cao năng lực tổ chức nghiên cứu khoa học công lập giai đoạn 2025–2030. Ảnh minh họa: ITN
Phê duyệt Chương trình nâng cao năng lực tổ chức nghiên cứu khoa học công lập giai đoạn 2025–2030. Ảnh minh họa: ITN

Việc xây dựng một nền khoa học – công nghệ (KH&CN) đủ mạnh, có khả năng tạo ra tri thức mới và dẫn dắt đổi mới công nghệ, đang trở thành yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh Việt Nam chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa nhiều hơn vào năng suất, chất lượng và đổi mới sáng tạo. Trong dòng chảy đó, các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công lập giữ vai trò nền tảng, nhưng cũng đang đối diện với nhiều giới hạn về năng lực, cơ chế vận hành và khả năng hội nhập quốc tế.

Quyết định số 2813/QĐ-TTg do Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng ký ban hành, phê duyệt Chương trình nâng cao năng lực cho các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ công lập giai đoạn 2025–2030, được xem là bước đi quan trọng nhằm tái cấu trúc và nâng tầm hệ thống nghiên cứu công lập, tạo ra các “đầu tàu” khoa học đủ sức dẫn dắt phát triển KH&CN quốc gia trong giai đoạn tới.

Theo Quyết định, Chương trình tập trung nâng cao năng lực toàn diện cho các tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập, hướng tới xây dựng nền tảng KH&CN vững chắc, đồng thời hình thành một số tổ chức nghiên cứu hạt nhân có vai trò động lực. Mục tiêu không chỉ dừng ở gia tăng số lượng công trình khoa học, mà hướng đến tạo đột phá thực chất trong nghiên cứu, phát triển công nghệ và ứng dụng vào thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho tăng trưởng kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển bền vững đất nước.

Đối tượng thụ hưởng của Chương trình bao gồm các viện hàn lâm, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu khoa học công lập; các cơ sở giáo dục đại học công lập được xác định là đại học quốc gia, đại học trọng điểm về kỹ thuật và công nghệ theo Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 27/2/2025; cùng với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đây đều là những thiết chế nghiên cứu giữ vai trò then chốt trong hệ thống KH&CN quốc gia.

Một trong những mục tiêu nổi bật của Chương trình là đến năm 2030, phát triển một số tổ chức nghiên cứu trở thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, có vị thế trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, Việt Nam đặt mục tiêu hình thành 05 tổ chức nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực Toán học, Vật lý, Sinh học, Khoa học Vật liệu, Khoa học Trái đất, nằm trong nhóm 30% tổ chức được xếp hạng cao nhất theo đánh giá của các tổ chức quốc tế uy tín như SCImago Institutions Rankings (SIR) hoặc tương đương.

Ở lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, mục tiêu là phát triển 07–10 tổ chức nghiên cứu đạt thứ hạng tương tự, đủ năng lực đảm nhận vai trò dẫn dắt nghiên cứu phục vụ phát triển công nghệ nền tảng và công nghệ chiến lược những lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đối với năng lực cạnh tranh quốc gia trong dài hạn.

Đối với khoa học xã hội và nhân văn, Chương trình đặt mục tiêu xây dựng 04 tổ chức nghiên cứu xuất sắc, giữ vai trò nòng cốt trong nghiên cứu và cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước trong hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển kinh tế – xã hội. Trong số đó, ít nhất một tổ chức được đánh giá ngang tầm khu vực và thế giới, góp phần nâng cao vị thế học thuật của khoa học xã hội Việt Nam trên trường quốc tế.

Bên cạnh việc nâng cấp tổ chức, Chương trình đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố con người nhân tố quyết định chất lượng và sức sống của hệ thống nghiên cứu. Đến năm 2030, mỗi tổ chức được triển khai nâng cao năng lực phải xây dựng và duy trì đội ngũ nghiên cứu với ít nhất 30 nghiên cứu viên, không bao gồm viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Đội ngũ này được hình thành theo hướng mở và linh hoạt, bao gồm nhà nghiên cứu theo hợp đồng, cộng tác viên khoa học trong và ngoài nước (trực tiếp hoặc trực tuyến), nghiên cứu sinh, học viên cao học. Đáng chú ý, Chương trình đặt ra yêu cầu tối thiểu 15% lực lượng nghiên cứu là người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm thúc đẩy giao lưu học thuật, chuyển giao tri thức và chuẩn mực nghiên cứu quốc tế.

Từ năm thứ hai triển khai nhiệm vụ, mỗi tổ chức phải thu hút tối thiểu 70 lượt chuyên gia và nhà khoa học uy tín trong khu vực và quốc tế tham gia hợp tác nghiên cứu, đào tạo, hội thảo và trao đổi học thuật; đồng thời duy trì ít nhất một diễn đàn khoa học hoặc hội thảo thường niên có uy tín tầm cỡ khu vực hoặc quốc tế.

Chương trình đưa ra các chỉ tiêu cụ thể, đo lường được nhằm chuẩn hóa chất lượng nghiên cứu theo thông lệ quốc tế. Đối với lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, hằng năm số lượng bài báo khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục Web of Science, Scopus hoặc Scimago Q1, Q2 phải tăng trung bình từ 15–20%. Đến năm 2030, hiệu suất công bố đạt tối thiểu 1,5 bài báo quốc tế uy tín/tiến sĩ/năm.

Không chỉ dừng ở công bố khoa học, Chương trình yêu cầu 100% tổ chức nghiên cứu cơ bản phải làm chủ quy trình nghiên cứu, tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh thuộc lĩnh vực chuyên môn, qua đó khắc phục tình trạng nghiên cứu phân tán, thiếu chiều sâu hoặc khó ứng dụng.

Ở lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, chỉ tiêu công bố quốc tế được đặt ở mức tăng trung bình 12%/năm, với hiệu suất tối thiểu 1,1 bài báo quốc tế uy tín/tiến sĩ/năm vào năm 2030. Đáng chú ý, Chương trình gắn chặt hoạt động nghiên cứu với đổi mới công nghệ thông qua các chỉ tiêu về sở hữu trí tuệ: số lượng văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích tăng trung bình 15%/năm, đồng thời tăng dần số sáng chế được bảo hộ ở nước ngoài. Hiệu suất tạo ra văn bằng bảo hộ đạt tối thiểu 0,2 văn bằng/tiến sĩ/năm.

Mỗi tổ chức nghiên cứu công nghệ được yêu cầu làm chủ quy trình thiết kế, tích hợp để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh đối với công nghệ nền tảng, công nghệ chiến lược, đồng thời hằng năm phải có ít nhất hai kết quả khoa học và công nghệ được chuyển giao hoặc ứng dụng vào thực tiễn.

Với khoa học xã hội và nhân văn, Chương trình xác định rõ vai trò cung cấp luận cứ khoa học cho hoạch định chính sách. Mỗi tổ chức nghiên cứu phải hằng năm cung cấp ít nhất 10 báo cáo tư vấn chính sách phục vụ xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật hoặc giải pháp phát triển xã hội cho trung ương và địa phương. Trong đó, tối thiểu một báo cáo phải được các cơ quan của Đảng, Nhà nước tham khảo, sử dụng làm căn cứ ban hành văn kiện, văn bản quy phạm pháp luật hoặc triển khai mô hình thử nghiệm trong thực tiễn.

Song song với đó, yêu cầu về công bố quốc tế cũng được đặt ra nhằm nâng cao vị thế học thuật của khoa học xã hội Việt Nam, với mức tăng trung bình 12%/năm và hiệu suất tối thiểu 1,0 công bố quốc tế uy tín/tiến sĩ/năm vào năm 2030.

Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, Chương trình xác định sáu nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc; phát triển đột phá hạ tầng KH&CN; thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực ưu tiên; đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực khoa học – công nghệ; và tăng cường truyền thông, lan tỏa kết quả nghiên cứu.

Đáng chú ý, Chương trình cũng làm rõ lộ trình thực hiện và trách nhiệm của từng bộ, ngành, qua đó khắc phục tình trạng chồng chéo, thiếu phối hợp trong triển khai chính sách KH&CN một hạn chế từng được chỉ ra trong nhiều chương trình trước đây.

Việc ban hành Chương trình nâng cao năng lực cho các tổ chức nghiên cứu công lập giai đoạn 2025–2030 cho thấy quyết tâm của Chính phủ trong việc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho KH&CN, coi đây là trụ cột cho phát triển dài hạn. Nếu được triển khai hiệu quả, Chương trình không chỉ góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu, mà còn tạo ra những tổ chức khoa học đủ mạnh để hội nhập sâu vào mạng lưới tri thức toàn cầu, đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế – xã hội và khẳng định vị thế khoa học Việt Nam trong giai đoạn mới.

PV

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng làm việc với Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng làm việc với Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Ngày 4/4, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng, cùng đoàn công tác đến thăm và làm việc với Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Viện Hàn lâm).