Trà hoa vàng Ba Chẽ từ rừng sâu ra thị trường: Hành trình đánh thức tiềm năng dược liệu quý

Từng bị săn lùng bởi thương lái Trung Quốc, trà hoa vàng Ba Chẽ nay được nghiên cứu bài bản, khẳng định giá trị dược liệu quý và trở thành sản phẩm OCOP tiềm năng của Quảng Ninh.

Trà hoa vàng: “Nữ hoàng” thảo dược từ rừng sâu Ba Chẽ

Ẩn mình dưới những tán rừng nguyên sinh ở huyện Ba Chẽ (tỉnh Quảng Ninh), cây trà hoa vàng – loài thực vật có tên khoa học Camellia euphlebia – từ lâu đã được giới chuyên gia đánh giá là “nữ hoàng của các loại trà”. Cây trà hoa vàng trước kia vốn là giống cây mọc hoang, thường xuất hiện dưới tán rừng rậm, ven suối. Từ những năm đầu thập niên 2000, người dân địa phương bắt đầu phát hiện giá trị của loài cây này và đem về trồng rải rác trên các triền đồi.

Trà hoa vàng là sản vật vùng núi cao. 
Trà hoa vàng là sản vật vùng núi cao. 

Theo bà Hoàng Thị Uy – Giám đốc Hợp tác xã Dược liệu Trà hoa vàng Ba Chẽ, từng được săn lùng ráo riết bởi giới lái buôn Trung Quốc vào năm 2011, cây trà hoa vàng mọc tự nhiên trên núi rừng Ba Chẽ, Quảng Ninh, đã từng bước lột xác từ một loại cây rừng quý hiếm thành sản phẩm chủ lực, mang tầm vóc OCOP quốc gia và là “ngôi sao sáng” trong lĩnh vực dược liệu thiên nhiên.

Theo những người Trung Quốc từng sang tận nơi thu mua cả cây và hoa, trà hoa vàng là một trong những loài thảo dược quý hiếm có giá trị dược tính cao. Thổ nhưỡng và khí hậu vùng núi Ba Chẽ lại đặc biệt phù hợp để cây phát triển tốt, thậm chí vượt trội hơn so với nhiều vùng khác tại Việt Nam.

Nhận ra tiềm năng kinh tế và giá trị y học to lớn, từ năm 2014 – thời điểm chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) bắt đầu lan tỏa tại Quảng Ninh – huyện Ba Chẽ đã xác định trà hoa vàng là sản phẩm chiến lược để phát triển bền vững.

Thương mại hóa, đưa trà hoa vàng vào sản xuất trà dược liệu. 
Thương mại hóa, đưa trà hoa vàng vào sản xuất trà dược liệu. 

Không dừng lại ở việc khuyến khích bà con trồng trọt, chính quyền địa phương còn chủ động bắt tay với các nhà khoa học để tìm hiểu kỹ về giá trị của loại cây này. Đích thân huyện đã mời PGS.TS Trần Văn Ơn, Trưởng bộ môn Thực vật học, Đại học Dược Hà Nội, nghiên cứu chuyên sâu.

Kết quả thật sự ấn tượng: hoa và lá trà chứa hơn 400 hợp chất tự nhiên quý giá, bao gồm các nhóm hoạt chất Saponin, phenolic, acid amin, axit folic, vitamin B1, B2, C, E, axit béo, protein cùng nhiều nguyên tố vi lượng như Ge, Se, Mo, Zn, V,... Tất cả đều có tác dụng tích cực trong nâng cao sức khỏe, tăng đề kháng, hỗ trợ phòng ngừa nhiều loại bệnh mà không gây tác dụng phụ.

Từ năm 2016 đến nay, Lễ hội Trà hoa vàng trở thành sự kiện thường niên tại Ba Chẽ, góp phần quảng bá hình ảnh vùng đất và khẳng định thương hiệu sản phẩm địa phương. Đặc biệt, Hội Trà hoa vàng lần thứ III năm 2020 đã được tổ chức quy mô, đánh dấu bước chuyển mình lớn với sự tham gia của PGS.TS Đặng Thị Cẩm Hà (Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam) cùng công bố về tác dụng sinh học mạnh mẽ của trà hoa vàng qua các nghiên cứu hiện đại.

Trà được chế biến bằng công nghệ sấy thăng hoa để giữ được dược liệu tốt nhất. 
Trà được chế biến bằng công nghệ sấy thăng hoa để giữ được dược liệu tốt nhất. 

Một trong những điểm sáng nổi bật là việc huyện Ba Chẽ phối hợp với Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam và đối tác quốc tế từ Vương quốc Hà Lan, sử dụng Công nghệ DR-Calux – công nghệ đạt chuẩn châu Âu và Mỹ – để đánh giá hiệu quả dược lý của trà hoa vàng trên tế bào người.

Kết quả cho thấy, chỉ cần pha trà với nước nóng trên 80 độ C, các hoạt chất sinh học đã có thể phát huy hiệu quả mà không cần dung môi chiết xuất. Đây là minh chứng khoa học rõ ràng, củng cố niềm tin với người tiêu dùng trong nước và mở ra cánh cửa xuất khẩu bền vững.

Không chỉ là một loại trà đẹp về hình dáng, quý về giá trị, trà hoa vàng Ba Chẽ còn khác biệt rõ rệt so với trà hoa vàng ở các vùng khác như Móng Cái, Ninh Bình, Nghệ An hay Tam Đảo. Chính vì thế, huyện Ba Chẽ là địa phương tiên phong và duy nhất hiện nay có hệ thống nghiên cứu chuyên sâu, bài bản về loại dược liệu này – đưa trà hoa vàng từ vùng núi xa xôi trở thành biểu tượng văn hóa – dược liệu mới của Việt Nam trên bản đồ quốc tế.

Theo bà Hoàng Thị Uy – Giám đốc Hợp tác xã Dược liệu Trà hoa vàng Ba Chẽ, chính từ những phát hiện này, tháng 8/2020, Hợp tác xã Dược liệu Trà hoa vàng Ba Chẽ được thành lập, với mục tiêu quy hoạch vùng trồng, đảm bảo chất lượng đầu ra và nâng tầm sản phẩm dược liệu địa phương. Dưới sự hỗ trợ từ chính sách Nghị quyết 194/2019/NQ-HĐND của tỉnh Quảng Ninh, người dân được tài trợ đến 70% chi phí giống cây nếu tham gia liên kết sản xuất – doanh nghiệp – hợp tác xã, với tổng mức hỗ trợ tối đa 500 triệu đồng/dự án.

Từ rừng sâu ra thị trường: Hành trình đánh thức tiềm năng cây trà quý

Tính đến nay, huyện đã triển khai 10 mô hình liên kết trồng trà hoa vàng, thiết lập mã vùng trồng phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu trong tương lai gần.

Được xem là “mỏ vàng xanh” giữa đại ngàn, toàn huyện Ba Chẽ hiện có khoảng 200ha diện tích trồng trà hoa vàng, tập trung tại các xã như Đồn Đạc, Đạp Thanh, Thanh Lâm, Thanh Sơn, Nam Sơn và Lương Mông. Trong số đó, khoảng 100ha đã bước vào giai đoạn cho thu hoạch ổn định. Mục tiêu đến năm 2025 là mở rộng diện tích lên đến 500ha, biến Ba Chẽ trở thành thủ phủ trà hoa vàng của cả nước.

Sản lượng bình quân hằng năm từ cây trà hoa vàng không hề nhỏ: khoảng 20 tấn hoa tươi và 65 tấn lá tươi. Với mức giá thu mua trung bình 600.000 đồng/kg hoa tươi và 50.000 đồng/kg lá tươi. Doanh thu toàn huyện từ loại cây này đạt hơn 20 tỷ đồng/năm – một con số đáng kể đối với địa phương vùng cao.

Nhiều sản phẩm làm từ trà hoa vàng đã được đưa ra thị trường. 
Nhiều sản phẩm làm từ trà hoa vàng đã được đưa ra thị trường. 

“Cây trà hoa vàng đòi hỏi chăm sóc công phu, phải trồng theo tiêu chuẩn hữu cơ, không dùng thuốc bảo vệ thực vật. Mỗi cây mất khoảng 5 – 6 năm mới bắt đầu ra hoa, và mỗi năm chỉ nở hoa một mùa duy nhất từ tháng Chạp đến tháng Hai âm lịch. Những bông hoa chất lượng cao phải được hái từ sớm tinh mơ, khi cánh hoa vừa hé nhẹ”, bà Hoàng Thị Uy chia sẻ.

Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, hợp tác xã ứng dụng công nghệ sấy thăng hoa tiên tiến, giúp giữ nguyên hình dáng, màu sắc, hương vị và hàm lượng hoạt chất trong hoa trà. Nhờ vậy, trà hoa vàng sấy khô có thể đạt mức giá lên đến 15 – 20 triệu đồng/kg, tùy loại. Lá sấy khô cũng được bán với giá từ 300.000 đến 500.000 đồng/kg.

Hiện tại, Hợp tác xã Dược liệu Trà hoa vàng Ba Chẽ đã phát triển 4 dòng sản phẩm chính: trà hoa vàng sấy thăng hoa, trà túi lọc, lá trà sấy khô và bột matcha từ trà hoa vàng. Không dừng lại ở đó, đơn vị còn đang thử nghiệm thêm sản phẩm nước uống kombucha trà hoa vàng đóng chai, dự kiến ra mắt trong thời gian tới. Một số ý tưởng sáng tạo khác như bánh trà hoa vàng cũng đang được nghiên cứu nhằm đa dạng hóa sản phẩm và chinh phục thị trường tiêu dùng hiện đại.

Tuy nhiên, theo bà Hoàng Thị Uy – Giám đốc Hợp tác xã Dược liệu Trà hoa vàng Ba Chẽ, việc tiêu thụ trà hoa vàng vẫn gặp không ít khó khăn do giá thành cao, khiến thị trường tiêu dùng chưa thật sự mở rộng. Hiện nay, khoảng 60% sản phẩm tiêu thụ tại Quảng Ninh, 30% tại Hà Nội và chỉ 10% được phân phối đến các tỉnh thành còn lại.

Ngoài hoa, lá cây trà hoa Vàng cũng được sử dụng. 
Ngoài hoa, lá cây trà hoa Vàng cũng được sử dụng. 

Trong bối cảnh nhu cầu sử dụng dược liệu thiên nhiên ngày càng gia tăng, trà hoa vàng của Ba Chẽ được xác định là một trong những “mũi nhọn” trong phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường và bền vững.

Sự kết hợp giữa bảo tồn thiên nhiên, tri thức bản địa và khoa học hiện đại đã mở ra hướng đi mới cho vùng đất vốn được xem là khó khăn về giao thương và điều kiện sản xuất. Từ chỗ chỉ là cây mọc hoang ven suối, trà hoa vàng đang dần trở thành biểu tượng kinh tế, văn hóa và bản sắc của huyện Ba Chẽ nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.

Sắp tới, huyện sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống truy xuất nguồn gốc, xây dựng tiêu chuẩn chất lượng đồng bộ và tìm kiếm các đối tác quốc tế trong lĩnh vực thực phẩm chức năng, dược phẩm để từng bước đưa trà hoa vàng thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới. Khi đó, “nữ hoàng” của các loại trà Việt Nam sẽ không chỉ dừng lại ở danh hiệu, mà còn thực sự bước lên “ngôi vương” trên bản đồ dược liệu toàn cầu.

Cẩm My

Nữ tiến sĩ “tối ưu bộ rễ Ba kích” ở vùng dược liệu tiền tỷ

Nữ tiến sĩ “tối ưu bộ rễ Ba kích” ở vùng dược liệu tiền tỷ

Không phải là người đầu tiên nuôi cấy mô cây Ba kích, nhưng TS Nguyễn Thị Thúy Hường là người đã tối ưu hóa được bộ rễ của loại cây này – phần giá trị nhất trong dược liệu.