Sau 05 năm triển khai thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trên cơ sở kết quả giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình tại tòa án các cấp, TANDTC đánh giá về kết quả đã đạt được, những hạn chế, vướng mắc và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Luật.
TANDTC chỉ ra những hạn chế và đưa ra kiến nghị, hoàn thiện quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. |
1. Về quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn
Theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình, vợ hoặc chồng bị tâm thần thì cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người bệnh có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự chỉ quy định là người mất năng lực hành vi hoặc người hạn chế năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn về nhận thức và làm chủ hành vi (các Điều 22, 23, 24 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Nếu bị đơn là người bị bệnh tâm thần không nhận thức được hành vi thì có giải quyết cho họ ly hôn không? Đối với vấn đề này, Luật Hôn nhân và gia đình không quy định và cho đến nay chưa có văn bản nào hướng dẫn.
2. “Chồng không có quyền ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai…”
Khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Chồng không có quyền ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai …”.
Trên thực tế phát sinh tình huống ông A và bà B có đăng ký kết hôn, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân nhiều năm. Bà B chung sống với người khác và hiện đang mang thai với người khác. Ông A có đủ căn cứ để chứng minh đó là con người khác nhưng khi ông A yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà B thì Luật Hôn nhân và gia đình lại quy định ông A không được quyền khởi kiện và Tòa án trả lại đơn khởi kiện (Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự). Điều này đã hạn chế quyền ly hôn của họ khi mục đích của hôn nhân không đạt được.
Chồng không có quyền ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai... |
Khó khăn trong việc đánh giá tình trạng trầm trọng của hôn nhân trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của vợ hoặc chồng: Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.
Đây là một quy định mới, mang tính khái quát cao. Tuy nhiên, khi giải quyết các trường hợp cụ thể, không có căn cứ rõ ràng để xác định thế nào là “làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”, thế nào là hành vi “vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng”. Do vậy, việc xem xét, đánh giá căn cứ trên là rất khó khăn.
Thực tế có nhiều vụ việc đương sự chỉ khai là có mâu thuẫn. Nhưng khi tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan, không ai biết về mâu thuẫn của vợ chồng và đương sự cũng không nhờ chính quyền can thiệp, không trình báo nên cũng không có cơ sở để đánh giá.
3. Trường hợp vợ, chồng đã ly thân trên thực tế
Luật Hôn nhân và gia đình không quy định ly thân là căn cứ cho ly hôn. |
Luật Hôn nhân và gia đình không quy định ly thân là căn cứ cho ly hôn mặc dù việc ly thân là một trong những biểu hiện của mâu thuẫn vợ chồng nên để giải quyết cho ly hôn Tòa án lại phải thu thập chứng cứ xác định nguyên nhân ly thân, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng hay chưa? Ly thân có phải là mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng hay không. Mặt khác, thời gian ly thân bao lâu thì được coi là mâu thuẫn trầm trọng để giải quyết ly hôn? Thực tiễn xét xử, các Tòa án thường đánh giá ly thân là căn cứ để giải quyết cho ly hôn.
4. Trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù
Luật Hôn nhân và gia đình chưa quy định trường hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt tù là căn cứ cho ly hôn. Vì vậy, trường hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt tù thì không đủ cơ sở giải quyết cho ly hôn. Điều này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị giải quyết cho ly hôn.
Thực tế hiện nay, có nhiều đơn yêu cầu ly hôn của một bên đối với người đang bị truy nã do vi phạm pháp luật, người bị kiện không có mặt tại địa phương mà cũng không rõ tung tích nên cũng khó khăn trong việc xác định mâu thuẫn vợ chồng nên cần hướng dẫn cụ thể trường hợp này.
5. Trường hợp bị đơn có dấu hiệu bị hạn chế về năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự
Bị đơn mất năng lực hành vi dân sự, Tòa án phải yêu cầu nguyên đơn hoặc người thân của bị đơn đưa bị đơn đi giám định. |
Trong vụ án ly hôn mà bị đơn có dấu hiệu bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự, Tòa án phải yêu cầu nguyên đơn hoặc người thân của bị đơn đưa bị đơn đi giám định. Sau khi có kết quả giám định của cơ quan có thẩm quyền xác định người bị đơn hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự, người yêu cầu xin ly hôn phải có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố bị đơn bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự, sau đó mới giải quyết cho họ được ly hôn. Việc làm này kéo dài thời gian giải quyết vụ án, nhất là trong trường hợp những người này cố tình không đưa người có dấu hiệu hạn chế về năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự đi giám định.
Hợp đồng hôn nhân đã được công nhận tại Việt Nam chưa?
Hợp đồng hôn nhân hỗ trợ người trong cuộc bảo toàn tài sản của mình, nhưng cũng vô tình tạo ra sự ngăn cách giữa hai bên khi quyết định kết hôn.