Di sản điện ảnh trước thách thức của thời kỳ chuyển đổi số
Phim điện ảnh không chỉ là sản phẩm nghệ thuật mà còn là một loại hình di sản văn hóa đặc biệt, ghi lại những biến chuyển của xã hội, tư tưởng và đời sống con người qua từng thời kỳ. Tuy nhiên, nhiều bộ phim, đặc biệt là phim nhựa 35mm - định dạng từng được xem là “rực rỡ” nhất của điện ảnh đang dần bị mai một do thời gian, điều kiện khí hậu, môi trường lưu trữ không đảm bảo và sự lạc hậu về công nghệ.
![]() |
| Hệ thống chỉnh màu trên phim tại Viện Phim Việt Nam |
Phim nhựa có tính nhạy cảm, mỏng manh, dễ hỏng và xuống cấp theo thời gian bảo quản nên sau nhiều lần khai thác phổ biến, vật liệu nghe nhìn này bị tổn thương, mang nhiều khuyết tật cơ học, lý học và hóa học dẫn tới tuổi thọ suy giảm và chất lượng kỹ thuật trình chiếu, truy cập tư liệu bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
![]() |
Việc số hóa phim tư liệu là công việc cấp thiết và vô cùng quan trọng trong thời đại công nghệ số đang phát triển như vũ bão. Số hóa đã trở thành vấn đề then chốt, quyết định sự thay đổi ý thức lưu trữ tư liệu hình ảnh động thời đại mới. Số hóa kịp thời điểm sẽ vừa thuận tiện trong việc khai thác tư liệu, vừa là biện pháp an toàn cho phim tư liệu gốc, khi chỉ sử dụng các bản phim số hóa còn phim nhựa gốc sẽ được bảo quản an toàn trong kho lạnh. Hệ thống máy quét phim sẽ số hóa phim sang các định dạng file gốc không nén ở độ phân giải cao. Vì thế, bên cạnh việc bảo quản, lưu trữ phim tại các kho lưu trữ phim theo tiêu chuẩn kỹ thuật, việc in chuyển phim từ phim nhựa sang các vật liệu băng, đĩa hình để phục vụ cho các hoạt động tra cứu, in trích tư liệu, khai thác sử dụng phim và in chuyển từ băng sang phim nhựa, phục chế, tu sửa hình ảnh điện tử qua hệ thống trang thiết bị công nghệ cao được Viện phim Việt Nam đặc biệt quan tâm.
![]() |
| Máy quét phim nhựa GoldenEye tại Viện Phim Việt Nam |
Tại Viện Phim Việt Nam, các hệ thống máy móc, thiết bị chuyên ngành được trang bị kịp thời như DaVinci 2K, trạm Sonic DVD – 6301… phục vụ công nghệ chuyển đổi kỹ thuật số: Telecin từ phim nhựa sang các định dạng số hoặc băng, kèm xử lý hình ảnh, chuyển đổi các định dạng từ phim nhựa 35/16 sang Data 2K hoặc SD, Digital Betacam hoặc Betacam SP, VHS, DVD… Chuyển đổi số hóa các định dạng analog và từ số hóa sang phim nhựa, tu sửa, phục chế các khuyết tật hình: mật độ, màu sắc, khuôn hình, xước, bụi… (đến 2K) bằng các phần mềm chuyên nghiệp, tu sửa, phục chế các khuyết tật âm thanh.
Viện cũng chủ động tìm kiếm thêm các nguồn kinh phí xã hội hóa để nâng cao hiệu quả công việc. Trong hướng đi đó, vài năm trước, đơn vị Ơ Kìa Hà Nội Film Production cũng đã phối hợp với Viện Phim Việt Nam thực hiện dự án “Bảo tồn di sản điện ảnh”, tiến hành phục chế và số hóa phim với chất lượng 4K. Đây được xem là một mô hình hợp tác công – tư hiệu quả, mở ra hướng đi mới trong bối cảnh nguồn ngân sách nhà nước còn hạn chế. Hiện nay, Viện Phim Việt Nam đã tiến hành số hóa khoảng 700 cuốn phim trên một năm.
![]() |
![]() |
| Hình ảnh trước (trên) và sau (dưới) khi chỉnh màu |
Tuy nhiên, công tác phục chế hiện nay vẫn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là thiếu hụt máy móc hiện đại, phần mềm xử lý hình ảnh và âm thanh chuyên nghiệp, cũng như nhân lực được đào tạo chuyên sâu.
Kinh nghiệm quốc tế: Hệ sinh thái phục chế toàn diện
Nhiều quốc gia đã xây dựng hệ thống bảo tồn di sản điện ảnh một cách chuyên nghiệp, bài bản, từ đầu tư công nghệ, xây dựng kho lưu trữ, đến đào tạo nhân lực và kết nối công chúng.
Tại British Film Institute (Anh), Dự án “Unlocking Film Heritage” giúp số hóa hơn 10.000 tựa phim, kết hợp lưu trữ với phổ biến văn hóa tới cộng đồng. Phim số hóa được chiếu trên nền tảng số, trong rạp và các trường học. Họ tận dụng ngân sách công và phối hợp với nhiều tổ chức khu vực.
Tại National Film and Sound Archive (Úc), Chương trình “NFSA Restores” sản xuất bản lưu trữ 4K và bản chiếu 2K, đồng thời có hội đồng chọn phim ưu tiên phục chế. Các bản phục chế được trình chiếu tại Liên hoan phim quốc tế và phát hành trên nền tảng số.
National Film Archive of Japan (Nhật Bản) thì xây dựng trung tâm bảo quản chuyên biệt, có môi trường kiểm soát nghiêm ngặt. Các phim như Rashomon được phục chế bằng công nghệ cao, kết hợp giữa kỹ thuật số và in trở lại phim nhựa để lưu trữ lâu dài.
Asian Film Archive (Singapore) dù quy mô nhỏ, họ đã phục chế nhiều phim khu vực Đông Nam Á. Với phim hỏng nặng, chỉ phục chế từng phần khả thi. Lưu trữ song song: bản phim số và bản in lại trên phim nhựa – để đảm bảo an toàn lâu dài.
Danish Film Institute (Đan Mạch) thì xuất bản tài liệu chuyên môn chia sẻ kinh nghiệm phục chế, từ khảo sát tình trạng vật lý đến tiêu chuẩn bảo quản, phục chế kỹ thuật số, giúp nâng cao năng lực ngành.
Bài học nào cho Việt Nam?
Từ thực tế trong nước và bài học kinh nghiệm quốc tế, thiết nghĩ Việt Nam cần sớm triển khai một số giải pháp trọng tâm sau để thúc đẩy hiệu quả công tác phục chế và số hóa phim lưu trữ:
Đầu tư thiết bị hiện đại: Ưu tiên các hệ thống scan phim độ phân giải cao (2K–4K), phần mềm chuyên dụng cho phục chế hình ảnh và âm thanh.
Đào tạo nhân lực: Thiết lập các chương trình đào tạo phục chế chuyên sâu, cử cán bộ kỹ thuật đi học tập tại nước ngoài, đồng thời tổ chức hội thảo chia sẻ kiến thức trong nước.
Xây dựng kho lưu trữ đạt chuẩn: Đầu tư hệ thống kho với điều kiện bảo quản tối ưu về nhiệt độ, độ ẩm, an toàn cháy nổ và chống mối mọt, nhằm đảm bảo tuổi thọ lâu dài cho phim gốc.
Chiến lược số hóa và khai thác: Không chỉ số hóa để bảo tồn, mà cần có kế hoạch đưa phim đến với công chúng thông qua các nền tảng số, trình chiếu, giáo dục hoặc truyền thông.
Tăng cường hợp tác công – tư: Khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức văn hóa, cá nhân yêu điện ảnh vào các dự án phục chế, phát hành và bảo tồn di sản phim.
Tài liệu hóa và quản lý metadata: Mỗi bộ phim cần được biên mục, chú thích và lưu trữ thông tin đầy đủ, nhằm phục vụ tra cứu, nghiên cứu và khai thác hiệu quả sau này.
Điện ảnh Việt Nam là một phần không thể thiếu trong ký ức văn hóa dân tộc. Mỗi cuốn phim lưu trữ đều chứa đựng giá trị lịch sử, nghệ thuật và tinh thần thời đại. Nếu không có chiến lược bảo tồn phù hợp, chúng ta có thể mất đi những tư liệu không thể phục dựng lại. Phục chế phim là một cuộc đua dài hơi, đòi hỏi sự kiên trì, đầu tư và đồng lòng của nhiều bên. Trong thời đại công nghiệp 4.0, khi mọi mặt của đời sống đang dần chuyển dịch sang không gian số, việc chậm trễ trong công tác số hóa di sản điện ảnh cũng đồng nghĩa với việc chậm trễ trong gìn giữ những giá trị ký ức quý báu của quá khứ.




















































Kho phim Viện Phim Việt Nam – Bảo vật điện ảnh giữa cuộc cách mạng số
Trong dòng chảy của lịch sử điện ảnh, kho lưu trữ phim không chỉ là nơi cất giữ những thước phim quý giá, mà còn là nơi bảo tồn ký ức tập thể của một dân tộc.