Trong khi các viện phim lớn trên thế giới đang đẩy mạnh số hoá, khôi phục và thương mại hóa kho tư liệu điện ảnh quốc gia, thì tại Việt Nam, công tác sưu tầm, lưu trữ phim vẫn đang đối diện nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề nộp lưu chiểu phim đối với phim Việt Nam không sử dụng ngân sách nhà nước.
Khi việc nộp lưu chiểu vẫn là “vùng xám”
Theo quy định của Luật Điện ảnh 2022, mọi cơ sở điện ảnh có phim được cấp giấy phép phân loại đều phải nộp một bản lưu chiểu cho cơ quan có thẩm quyền. Sau thời hạn lưu chiểu, bản phim Việt Nam, dù sản xuất bằng ngân sách hay không sử dụng ngân sách nhà nước, đơn vị sản xuất phim tư nhân đều phải chuyển giao cho cơ sở lưu trữ phim để bảo quản lâu dài.
![]() |
Kho bảo quản và lưu trữ phim tại Viện phim Việt Nam |
Tại Việt Nam, Viện Phim Việt Nam là đơn vị đầu mối được giao nhiệm vụ này. Hàng vạn mét phim đã được phân loại, lập danh mục và lưu giữ theo từng thể loại, từ phim truyện, tài liệu, hoạt hình đến khoa học. Mỗi tác phẩm được lập hồ sơ chi tiết, mô tả cảnh quay, nhân vật, sự kiện, đi kèm dữ liệu số hóa giúp việc tra cứu, trích xuất tư liệu thuận tiện và chính xác hơn.
Công việc tưởng chừng khô khan này lại là nền tảng của bảo tồn ký ức dân tộc. Bởi điện ảnh không chỉ là nghệ thuật kể chuyện bằng hình ảnh mà còn là “chứng nhân” của từng thời kỳ lịch sử, từng chuyển động xã hội, từng hơi thở văn hoá Việt.
Dù khung pháp lý đã rõ ràng, nhưng trên thực tế, nhiều đơn vị sản xuất phim không sử dụng ngân sách nhà nước do lo ngại lộ bản quyền đã nộp bản phim lưu trữ khóa mã, dẫn dến phim lưu trữ không thể mở kiểm tra kỹ thuật hoặc phục vụ lưu trữ, học tập.
![]() |
Tại Viện Phim Việt Nam, công tác kiểm tra phim được tiến hành cẩn thận, ghi chép từng lỗi để có phương án xử lý tối ưu. |
Hệ quả là, chưa thể có bức tranh toàn vẹn của điện ảnh quốc gia, bởi các phim sản xuất không sử dụng ngân sách nhà nước không thể tra cứu tại hệ thống lưu trữ nhà nước.
Một nghịch lý khác, cơ sở lưu trữ chỉ có quyền bảo quản, việc khai thác thương mại đối với phim sử dụng ngân sách nhà nước chưa có quy định. Kho tư liệu khổng lồ, kết tinh từ công sức của nhiều thế hệ mới chỉ được sử dụng phục vụ nghiên cứu, triển lãm hoặc giới thiệu phi thương mại. Vì thế, mong muốn biến kho tư liệu ấy thành nguồn lực kinh tế văn hoá vừa quảng bá, vừa tự nuôi dưỡng công tác bảo quản, bảo vẫn còn là chặng đường dài đầy thách thức.
![]() |
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Viện Phim Việt Nam là nhận nộp lưu chiểu vật liệu gốc, nộp lưu trữ đối với các tác phẩm điện ảnh, các tài liệu kèm theo phim và tư liệu chưa dựng thành tác phẩm. |
Từ câu chuyện Việt Nam, nhìn ra thế giới
Câu chuyện bảo tồn điện ảnh không chỉ là của riêng Việt Nam. Trên thế giới, nhiều viện phim quốc gia đã có mô hình sưu tầm mở, linh hoạt và gắn kết cộng đồng, giúp họ tạo dựng kho tư liệu điện ảnh toàn diện, phản ánh trọn vẹn lịch sử và bản sắc văn hoá quốc gia.
Viện phim Anh (BFI) có chiến dịch “Save the Film”, kêu gọi người dân hiến tặng phim gia đình, phim 8mm, 16mm, nhằm gìn giữ ký ức xã hội qua ống kính nghiệp dư. Toàn bộ tư liệu được quản lý theo chuẩn metadata quốc tế FIAF, giúp kết nối với kho lưu trữ toàn cầu.
![]() |
Bà Lê Thị Hà, Viện Trưởng Viện Phim Việt Nam phát biểu tại Lễ trao tặng phim tài liệu Thụy Điển “Chiến thắng của Việt Nam” (Viet Nam Victory) do Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam trao tặng cho Viện Phim Việt Nam. |
Cinémathèque Française (Pháp) không chỉ lưu phim mà còn sưu tầm máy quay, phục trang, bản vẽ, thư từ đạo diễn, hướng tới bảo tồn toàn bộ hệ sinh thái sáng tạo điện ảnh.
Viện phim Mỹ (AFI) phối hợp với Library of Congress lập “National Film Registry”,danh sách phim được bảo tồn vĩnh viễn vì giá trị văn hoá, lịch sử, thẩm mỹ.
Viện phim Nhật Bản (NFAJ) triển khai chương trình “Film Rescue”, vận động cá nhân, tổ chức gửi phim cũ để phục hồi và số hoá, xây dựng cơ sở dữ liệu mở phục vụ nghiên cứu và giáo dục.
Điểm chung của các mô hình này là huy động xã hội hóa công tác lưu trữ, coi người dân, hãng phim, tổ chức văn hoá là đối tác trong việc bảo tồn di sản hình ảnh động.
Hướng tới một chiến lược bảo tồn điện ảnh hiện đại
Ở Việt Nam, ngoài Viện phim Việt Nam, Điện ảnh Quân đội nhân dân cũng đang lưu trữ một lượng lớn phim tư liệu điện ảnh, đồng thời đầu tư số hóa, đào tạo nhân lực để phục hồi, bảo quản tư liệu trong giai đoạn mới. Tuy vậy, để tạo ra bước tiến mang tính hệ thống, cần một chiến lược dài hạn trên ba hướng:
Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế phối hợp: Quy định rõ ràng trách nhiệm nộp lưu chiểu không mã khóa, có chế tài đủ mạnh đối với đơn vị vi phạm. Xác lập cơ chế chia sẻ bản quyền giữa đơn vị sản xuất và cơ quan lưu trữ, khuyến khích nộp bản phim gốc.
Thứ hai, đầu tư công nghệ số hoá và bảo quản hiện đại: Từng bước chuyển đổi kho phim vật lý sang kho dữ liệu số đạt chuẩn quốc tế. Ứng dụng AI để phục hồi màu sắc, âm thanh, chống hư hại do thời gian.
Thứ ba, mở rộng hợp tác và xã hội hoá sưu tầm: Vận động các đạo diễn, nhà sưu tầm tư nhân, đài truyền hình cùng đóng góp tư liệu. Tạo cơ sở dữ liệu mở, phục vụ học tập, nghiên cứu, đồng thời có cơ chế khai thác hợp pháp, minh bạch.
Điện ảnh là một dạng di sản sống, có thể xem, nghe, cảm nhận nhưng cũng dễ mất đi nhất nếu không được bảo tồn đúng cách. Mỗi cuộn phim lưu lại không chỉ một câu chuyện, mà là một lát cắt của ký ức dân tộc, là “tư liệu bằng hình” của thời đại.
Việc sưu tầm, lưu trữ phim vì thế không chỉ là công tác kỹ thuật, mà là sứ mệnh văn hoá, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa Việt trong dòng chảy toàn cầu hóa.
Giữa kỷ nguyên số, khi công nghệ cho phép kết nối ký ức với hiện tại, khát vọng của những người làm lưu trữ như tại Viện Phim Việt Nam vẫn giản dị mà lớn lao: lưu được càng nhiều, càng lâu, càng tốt, để ký ức điện ảnh Việt Nam không bị lãng quên.
Viện Phim Việt Nam – Bảo tàng tư liệu hình ảnh động quốc gia: Gìn giữ ký ức dân tộc qua từng thước phim
Trong thời đại số, Viện Phim Việt Nam giữ vai trò như một “bảo tàng tư liệu hình ảnh động quốc gia”, lưu giữ ký ức, văn hóa và bản sắc dân tộc qua gần nửa thế kỷ lưu trữ.