Tại Hội thảo Khoa học Quốc tế về Biển Đông lần thứ 12 đã diễn 4 phiên thảo luận của ngày Hội thảo thứ nhất (ngày 16/11) với các chủ đề: Tình hình Biển Đông trong tình hình thế giới biến động; Vai trò của ASEAN với tầm nhìn sau năm 2025; Tranh luận pháp lý bằng Công hàm tại Liên hợp quốc; Cạnh tranh định hình công luận về Biển Đông và vai trò của báo chí…
Hội thảo Khoa học Quốc tế về Biển Đông lần thứ 12. |
Một số ý kiến cho rằng dù giữa đại dịch Covid-19 và diễn biến căng thẳng trên Biển Đông khó tìm ra mối liên hệ nhưng phải thừa nhận Covid-19 làm cho quan hệ giữa các nước lớn xấu đi ở Biển Đông, nhất là quan hệ cạnh tranh Mỹ-Trung.
Cụ thể Trung Quốc đã lợi dụng tình hình Covid-19 để gia tăng nhịp độ hoạt động trên thực địa, mở rộng kiểm soát trên Biển Đông và cố ý va chạm với nhiều nước. Gần đây còn đẩy mạnh “lập trường quan điểm” trên khắp thế giới, gây nên phản ứng mạnh mẽ của chính phủ và người dân ở nhiều nước. Phía Mỹ vẫn duy trì các hoạt động quân sự và tự do hàng hải; tỏ thái độ cứng rắn hơn trên mặt trận ngoại giao, pháp lý, phản đối trực diện yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Chính quyền Mỹ ngày càng cứng rắn hơn với Trung Quốc. Chính sách Biển Đông của Mỹ về cơ bản đã định hình rõ nét hơn dưới thời Tổng thống Trump nên chính quyền sắp tới sẽ ít khả năng có điều chỉnh lớn về chiến lược.
Các nước ASEAN nhìn chung phản ứng kiềm chế để không làm căng thẳng ở Biển Đông vượt ngoài tầm kiểm soát; tiếp tục thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, vai trò trung tâm của ASEAN để giữ được vị thế trong bối cảnh cạnh tranh. ASEAN cũng nỗ lực thúc đẩy hợp tác biển trên cơ sở của luật pháp quốc tế, trong đó UNCLOS 1982 là cơ sở pháp lý cho các hoạt động trên các vùng biển và đại dương.
Có ý kiến cho rằng ASEAN cần tối ưu hoá nguyên tắc đồng thuận, thúc đẩy các cơ chế tiểu đa phương giữa các nước Đông Nam Á chủ chốt có chung chí hướng để hợp tác khu vực hiệu quả hơn; xây dựng, tăng cường các thiết chế của mình để có thể thúc đẩy hợp tác biển đa phương trong bối cảnh chủ nghĩa đa phương đang chịu nhiều thách thức trên thế giới.
Việc EU quan tâm và hiện diện nhiều hơn ở Châu Á nói chung và Biển Đông nói riêng trong thời gian gần đây vì muốn bảo vệ hệ thống luật pháp quốc tế, tự do thương mại và trật tự dựa trên luật lệ trong khu vực. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng có thể khiến tình hình phức tạp hơn.
Các học giả khẳng định, UNCLOS 1982 có giá trị phổ quát và toàn diện, phạm vi điều chỉnh tất cả các vấn đề trên biển, trực tiếp và gián tiếp đề cập tới Phán quyết của Toà Trọng tài quốc tế trong vụ kiện Biển Đông năm 2016 của Philipines, phản đối tất cả các yêu sách vùng biển phi lý của Trung Quốc.
Uỷ ban ranh giới thềm lục địa đã trở thành nơi lưu giữ chính thức tất cả các công hàm, công thư phản đối các yêu sách vùng biển thái quá của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhiều học giả khẳng định không tồn tại một quy chế đặc biệt nào cho phép các quốc gia lục địa được vẽ đường cơ sở thẳng quanh các nhóm đảo, quần đảo xa bờ.
Các công hàm/ công thư trao đổi ở Liên Hợp Quốc đã có những đóng góp giá trị trong việc làm rõ và củng cố lập trường pháp lý của các bên liên quan, đây là nguồn tài liệu quan trọng thể hiện quan điểm của các bên yêu sách về vấn đề Biển Đông. Cuộc tranh luận bằng công hàm là cách đấu tranh chính thức, hòa bình và mang lại sự minh bạch vì các nước yêu sách dần làm rõ các yêu sách lãnh thổ và yêu sách biển ở Biển Đông, đồng thời công bố công khai với cộng đồng quốc tế.
Có học giả còn đề xuất một số quốc gia ASEAN có nhiều điểm tương đồng trong vấn đề pháp lý có thể hướng tới một tuyên bố lập trường chung về Biển Đông.
Các đại biểu cho rằng sự cạnh tranh định hình dư luận này đã diễn ra ở phạm vi rộng, với nhiều hình thức khác nhau. Việc một số cơ quan truyền thông đưa tin từ góc độ chủ nghĩa dân túy có thể làm sai lệch thông tin, phản tác dụng với chính chính phủ các nước. Vì vậy kiến nghị công chúng cần tham khảo thông tin từ các nguồn chính thống và đối chiếu các nguồn thông tin với nhau. Truyền thông ở Việt Nam rất cởi mở, thể hiện qua việc có nhiều cơ quan truyền thông quốc tế đặt trụ sở tại Việt Nam và sự cởi mở, thẳng thắn của các cơ quan chính phủ Việt Nam đối với các nhà báo quốc tế.
Hà Nội: Đá lát vỉa hè được quảng cáo độ bền 70 năm nhưng đã bung vỡ chỉ sau 2 năm sử dụng
Tại một số tuyến đường như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trãi, Trần Duy Hưng (Hà Nội),... đá lát vỉa hè bắt đầu vỡ nát, xô lệch.