Ý nghĩa và truyền thuyết loài hoa Bỉ Ngạn

Ngàn năm hoa nở, ngàn năm hoa tàn, hoa vừa kịp nở lá vội tan, lá vừa chớm mọc thì hoa lại tàn, chỉ thấy hoa mà không thể thấy lá, khi thấy lá lại chẳng thể gặp hoa, lá và hoa dẫu cùng chung một rễ, vốn rất gần mà chẳng thể gặp nhau, cứ nhớ thương mà ôm sầu thương nhớ… Người ta nói, đó là hoa bỉ ngạn.

1. Ý nghĩa hoa bỉ ngạn

Loài hoa này có rất nhiều các ý nghĩa khác nhau. Nhưng thông thường, khi nhắc đến bỉ ngạn thì người ta thường nghĩ đến sự phân ly. Và tại mỗi một quốc gia thì loài hoa này nó lại mang một ý nghĩa khác nhau. Ví dụ:

– Nhật Bản: là sự hồi ức đau thương

– Triều Tiên: là sự nhung nhớ về nhau

– Trung Quốc: nói đến sự ưu mĩ thuần khiết

Nói chung, khi nói đến hoa bỉ ngạn thì ý nghĩa mà người ta vẫn thường nhắc đến đó chính là sự phân ly, đau khổ, không may mắn và là sự chết chóc. Nhưng bên cạnh đó thì cũng có nhiều người hiểu theo ý nghĩa cho hồi ức đau thương. Người ta thường kể rằng đây là loài hoa duy nhất dưới đường xuống hoàng tuyền, khi linh hồn trước khi đi qua cầu Nại Hà bắc ngang bờ Vong Xuyên, khi đó sẽ gửi toàn bộ ký ức của mình cho hoa bỉ ngạn. Cho dù là có đau khổ tột cùng hay là yêu thương thắm thiết thì hoa đều thu nhận được tất cả những hồi ức đó.

Ý nghĩa và truyền thuyết loài hoa Bỉ Ngạn

2. Truyền thuyết về hoa bỉ ngạn

Có rất nhiều truyền thuyết khác nhau kể về hoa bỉ ngạn, có một câu chuyện như thế này:

Xưa có một đôi nam nữ, theo luật Thiên Đình họ không được phép gặp gỡ. Một ngày, cả hai đã phá vỡ giới luật để tìm đến bên nhau. Chàng là một nam tử hào hoa anh tuấn, còn nàng lại là một nhi nữ đẹp tựa tiên sa. Cả hai vừa gặp đã quen thân, quyến luyến không xa rời, nguyện ước hẹn ở bên nhau đến kiếp kiếp đời đời.

Nhưng vì đã phạm luật Trời, họ bị đọa xuống trần gian rồi biến thành hoa và lá của cùng một cây. Lá xanh, hoa đỏ, đẹp kiêu sa nhưng chất chứa nỗi buồn. Có điều, loài hoa này rất đặc biệt, có hoa thì không thấy lá, mà có lá lại chẳng thể thấy hoa, giữa hoa và lá, cuối cùng cũng không thể gặp mặt.

Một ngày, Đức Phật đi ngang qua, thấy trên mặt đất có một loài hoa đỏ rực như lửa, vừa nhung nhớ lại vừa u sầu. Phật vừa nhìn đã thấu tỏ được huyền cơ trong đó. Quả thật là:

“Bỉ Ngạn hoa, khai nhất thiên niên, lạc nhất thiên niên, hoa diệp vĩnh bất tương kiến. Tình bất vi nhân quả, duyên chú định sinh tử” – Bỉ Ngạn hoa, một nghìn năm nở, một nghìn năm tàn, hoa và lá vĩnh viễn không thể gặp nhau. Tình không vì nhân quả, duyên đã định tử sinh.

Đức Phật xót thương, bèn quyết định mang hoa về miền Cực Lạc. Nhưng vì Cực Lạc là Phật quốc, là thế giới thanh tịnh và thuần khiết, nên tất cả những gì là ‘tình si’, ‘nhung nhớ’, ‘u sầu’, ‘đau khổ’… đều không được phép tiến nhập vào miền tịnh thổ. Những thứ xúc cảm con người ấy đều phải rời khỏi hoa, kết thành một màu đỏ rực lửa rồi rơi xuống sông Vong Xuyên.

Bởi vậy, khi về đến Cực Lạc, đóa hoa trong tay Phật đã biến thành một màu trắng tinh khiết không còn nhuốm bụi trần. Đức Phật bèn gọi nó là Mạn Đà La hoa, hoa của cõi Phật, cũng chính là một loại hoa Bỉ Ngạn.

Ý nghĩa và truyền thuyết loài hoa Bỉ Ngạn

Lại nói về màu đỏ rực lửa. Lúc ấy, Bồ Tát Địa Tạng thần thông quảng đại đã biết rằng nghiệp duyên của hoa Mạn Đà La hiện đang nằm dưới sông Vong Xuyên. Ngài bèn đến bên bờ sông, ném xuống một hạt giống, chỉ trong chốc lát một đóa hoa đỏ tươi bay ra khỏi mặt nước. Bồ Tát đón lấy hoa và nói:

“Ngươi đã thoát thân trở về miền Cực Lạc, sao còn đem nỗi hận tình si để lại nơi khổ ải vô biên này chứ? Vậy thì, ngươi hãy ở đây làm sứ giả tiếp dẫn các linh hồn đi về phía luân hồi. Cực Lạc đã có Mạn Đà La hoa rồi (Mandarava), vậy ta sẽ gọi ngươi là Mạn Châu Sa hoa vậy (Manjusaka)”.

Từ đó có hai loài hoa Bỉ Ngạn, một loại trắng ngần tinh khiết, một loại lại rực rỡ hoa lệ. Một loại gợi nhớ gợi thương, chia ly đau khổ. Một loại lại vô dục vô cầu, vô khổ vô bi, một loại trầm luân trong nỗi sầu nhân thế, một loại lại thanh thảng nơi Phật quốc thanh cao.

MỘC MIÊN [t/h]

Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ cán bộ Trung ương