![]() |
Chân dung năm nhà khoa học nữ mang trí tuệ đến ruộng đồng |
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam vừa vinh danh 32 “Nhà khoa học của nhà nông” năm 2025, trong đó có 5 nữ nhà khoa học tiêu biểu. Họ là những người đã dành cả tuổi thanh xuân cho đồng ruộng, cho những thí nghiệm âm thầm giữa nắng gió, với chung một khát vọng, biến tri thức khoa học thành động lực nâng tầm nông nghiệp Việt Nam.
Nếu như các nhà khoa học nam thường được gắn với hình ảnh của sự bền bỉ trong nghiên cứu, thì năm gương mặt nữ được vinh danh lần này lại cho thấy một góc nhìn khác mềm mại, sáng tạo nhưng không kém phần quyết liệt. Họ không chỉ đại diện cho tri thức, mà còn cho bản lĩnh, cho tình yêu quê hương và người nông dân.
TS Lê Nguyễn Lan Thanh, người “thiết kế thời trang” cho hoa Việt
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Tân Châu (An Giang) nơi những cánh đồng hoa kiểng nở rộ mỗi dịp Tết đến xuân về, TS Lê Nguyễn Lan Thanh sớm ấp ủ tình yêu với sắc hương đồng nội. Sau khi tốt nghiệp đại học ngành Nông học tại Trường Đại học Cần Thơ, chị tiếp tục theo đuổi chương trình cao học và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về công nghệ nhân giống và lai tạo hoa tại Nhật Bản một trong những cái nôi của công nghệ sinh học ứng dụng trong chọn tạo giống hoa.
![]() |
TS Lê Nguyễn Lan Thanh, người “thiết kế thời trang” cho hoa Việt. Ảnh: DV |
Trở về nước, chị công tác tại Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam (SOFRI) nơi gắn bó suốt hơn hai thập kỷ qua. Trong vai trò Chủ nhiệm Bộ môn Nghiên cứu hoa và cây cảnh, TS Lan Thanh đã miệt mài nghiên cứu, lai tạo và chọn lọc các giống hoa phù hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ năm 2020 đến nay, nhóm nghiên cứu của chị đã lai tạo thành công hơn 20 giống hoa mới, trong đó nổi bật là các dòng cúc và cẩm chướng mang mã C10, C11, C195, D191 được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật. Các giống này cho năng suất cao hơn từ 15–20% so với giống nhập, thời gian sinh trưởng rút ngắn 10–15 ngày và có khả năng thích nghi tốt với điều kiện nắng nóng, khô hạn của miền Tây Nam Bộ.
Không chỉ dừng ở nghiên cứu, TS Lan Thanh còn chú trọng chuyển giao công nghệ nuôi cấy mô và sản xuất giống hoa sạch bệnh cho các hợp tác xã và hộ trồng hoa tại Bến Tre, Tiền Giang, Lâm Đồng. Nhờ đó, nhiều nông hộ đã chủ động được nguồn giống trong nước, giảm chi phí nhập khẩu và tăng lợi nhuận ổn định qua từng vụ Tết.
Bên cạnh công trình khoa học, chị còn là tác giả và đồng tác giả của hơn 40 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí uy tín trong và ngoài nước; 3 sáng chế, giải pháp hữu ích được Cục Sở hữu trí tuệ công nhận; đồng thời chủ nhiệm 5 đề tài cấp Bộ và nhiều dự án cấp cơ sở về phát triển hoa kiểng phục vụ đô thị sinh thái và du lịch nông nghiệp.
Không ồn ào, không phô trương, chị lặng lẽ “thiết kế thời trang” cho những cánh hoa Việt để mỗi mùa Tết, mỗi làng hoa, đều rực rỡ hơn bởi bàn tay và trí tuệ của người phụ nữ gắn bó trọn đời với hương sắc đồng quê.
Kỹ sư Bạch Thị Vững, người không nghỉ giữa mùa gặt
Sinh ra ở vùng chiêm trũng Nam Định nơi hạt lúa nuôi sống bao thế hệ, kỹ sư Bạch Thị Vững sớm gắn bó với đồng ruộng từ những năm còn bé. Sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp Hà Nội, bà chọn con đường ít người đi, theo nghề chọn giống công việc thầm lặng nhưng đòi hỏi sự tỉ mỉ và kiên nhẫn đến mức khắt khe.
![]() |
Kỹ sư Bạch Thị Vững miệt mài trong phòng thí nghiệm. Ảnh: NVCC |
Hơn ba thập kỷ gắn bó với Viện Nghiên cứu và Phát triển Giống cây trồng (VRDC) thuộc Vinaseed Group, bà là một trong những chuyên gia chủ lực của nhiều chương trình lai tạo giống lúa thuần và lúa lai thế hệ mới, góp phần hình thành các dòng lúa có năng suất cao, chất lượng gạo tốt và chống chịu sâu bệnh.
Nhiều giống lúa do bà và cộng sự nghiên cứu đã trở thành lựa chọn chủ lực của nông dân Việt Nam như Đài Thơm 8, RVT, VNR20, giúp tăng năng suất từ 10–15%, đồng thời thích nghi tốt với điều kiện khô hạn và mặn hóa. Đằng sau những con số ấy là hàng trăm mùa khảo nghiệm, hàng ngàn lần ghi chép tỉ mỉ trên cánh đồng trải dài từ Bắc vào Nam.
Người ta vẫn thấy hình ảnh bà dáng nhỏ, đội mũ rộng vành, tay cầm sổ ghi chép lặng lẽ giữa nắng gió. “Tôi chưa bao giờ xem công việc này là nghiên cứu đơn thuần. Mỗi hạt lúa là sinh mệnh, là niềm tin của người trồng lúa,” bà chia sẻ.
Ở tuổi 60, khi nhiều người chọn nghỉ ngơi, bà vẫn miệt mài trên đồng ruộng, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, trực tiếp kiểm tra độ thuần của từng giống trước khi nhân rộng. Với bà, thành công không nằm ở bằng khen, mà ở nụ cười nhẹ nhõm của người nông dân khi mùa gặt được mùa.
TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên, người lai tạo “lúa chống chọi với biến đổi khí hậu”
Lớn lên giữa miền Tây sông nước, TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên hiện là Phó Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long chọn con đường nghiên cứu lúa không phải vì được giao nhiệm vụ, mà vì tình yêu sâu sắc dành cho hạt gạo quê hương.
![]() |
TS Nguyễn Thúy Kiều Tiên trả lời phỏng vấn về công tác nghiên cứu, chọn tạo giống lúa. Ảnh: Kim Anh |
Tốt nghiệp loại xuất sắc ngành Di truyền và Chọn giống tại Trường Đại học Cần Thơ, chị tiếp tục học tiến sĩ tại Nhật Bản, nơi công nghệ gen và lai tạo giống đã đạt đến trình độ tiên tiến hàng đầu thế giới. Những năm du học, chị miệt mài nghiên cứu cơ chế gen giúp cây trồng chống chịu mặn và hạn điều mà chị biết chắc sẽ là thách thức lớn nhất của nông nghiệp Việt Nam trong tương lai.
Trở về nước, TS Kiều Tiên cùng nhóm cộng sự tập trung phát triển các dòng lúa chịu mặn, chịu hạn, kháng sâu bệnh và có năng suất ổn định, như OM5451, OM6976, OM2517 hiện được canh tác rộng rãi ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Nhiều giống đã được xuất khẩu sang Campuchia, Myanmar và Lào, mở ra hướng thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học Việt Nam.
Không chỉ làm nghiên cứu, chị còn tham gia chuyển giao quy trình kỹ thuật canh tác thông minh thích ứng biến đổi khí hậu, giúp nông dân điều chỉnh mùa vụ, giảm lượng phân bón, tiết kiệm nước tưới mà vẫn giữ năng suất cao.
“Làm khoa học không thể chỉ đứng trong phòng lạnh,” chị nói. “Phải về ruộng, phải lắng nghe người trồng lúa nói, phải thấy họ mất ăn mất ngủ khi nước mặn vào đồng, thì mới biết mình cần làm gì.”
Chính cách tiếp cận gần dân, bền bỉ và khiêm nhường ấy khiến chị được đồng nghiệp gọi là “nhà khoa học của đồng bằng” người góp phần giúp hạt lúa Việt đứng vững trước thử thách khí hậu.
TS Lê Huỳnh Thanh Phương mang công nghệ sinh học đến ao nuôi
Sinh ra ở Bạc Liêu vùng đất của những đầm tôm mênh mông, TS Lê Huỳnh Thanh Phương sớm nhìn thấy những trăn trở của người nuôi trồng thủy sản, làm sao để nuôi tôm sạch, nuôi bền, mà vẫn có lợi nhuận.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Nông Lâm TP.HCM, chị theo học chương trình tiến sĩ công nghệ sinh học ở Hàn Quốc. Trở về nước, chị đồng sáng lập và hiện là Phó Giám đốc Công ty TNHH Công nghệ Sinh học Mintu Việt Nam, nơi nghiên cứu và sản xuất các chế phẩm sinh học phục vụ nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi.
![]() |
TS Lê Huỳnh Thanh Phương mang công nghệ sinh học đến ao nuôi |
Chị và nhóm nghiên cứu đã phát triển gần 50 sản phẩm sinh học hữu hiệu, trong đó nổi bật là chế phẩm diệt nấm đồng tiền trong ao nuôi tôm một trong những bệnh gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Giải pháp này giúp giảm 60% lượng kháng sinh, đồng thời cải thiện chất lượng nước, góp phần nâng cao tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cho thủy sản xuất khẩu.
Ngoài ra, TS Phương còn tiên phong ứng dụng vi sinh vật bản địa và enzyme tự nhiên để xử lý bùn đáy ao nuôi, giảm ô nhiễm nguồn nước và tăng tỷ lệ sống của tôm giống. Công trình của chị không chỉ được công nhận bởi Bộ Khoa học và Công nghệ mà còn nhận giải thưởng “Phụ nữ Việt Nam sáng tạo năm 2023”.
Với chị, mỗi dòng sản phẩm sinh học không chỉ là kết quả của nghiên cứu, mà là lời hứa với người nuôi tôm về một tương lai xanh hơn và sạch hơn cho ngành thủy sản Việt Nam.
ThS Trần Thị Kim Hương, người giữ hồn dược liệu vùng cao
Sinh ra ở vùng núi Phong Thổ (Lai Châu), nơi cây cỏ mọc quanh nhà đều là vị thuốc, ThS Trần Thị Kim Hương, hiện là Trưởng phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ – Sở KH&CN Lai Châu, đã chọn con đường gắn bó với dược liệu như một sứ mệnh của quê hương.
![]() |
Sau khi tốt nghiệp Đại học Dược Hà Nội, chị trở về Lai Châu, mang theo ước mơ xây dựng thương hiệu dược liệu bản địa. Hơn 15 năm qua, chị dẫn dắt nhiều đề tài bảo tồn và phát triển cây dược liệu quý, trong đó nổi bật là đề án phát triển cây sâm Lai Châu (Panax vietnamensis var. fuscidiscus) loài sâm đặc hữu của vùng núi Tây Bắc.
Chị cùng cộng sự đã nghiên cứu quy trình nhân giống vô tính và trồng sâm dưới tán rừng tự nhiên, giúp tăng tỷ lệ sống từ 30% lên 85%. Đồng thời, chị hướng dẫn hàng trăm hộ dân người Mông, Dao, Thái… áp dụng kỹ thuật trồng, chăm sóc và sơ chế dược liệu đạt chuẩn GACP-WHO, từng bước hình thành chuỗi giá trị sâm Lai Châu từ vườn trồng đến sản phẩm thương mại.
Không chỉ là nhà nghiên cứu, chị còn là cầu nối giữa tri thức và cộng đồng. “Nếu chỉ bảo tồn trong phòng thí nghiệm thì cây thuốc sẽ chết dần trong ký ức. Phải đưa nó trở lại với người dân, để họ sống được nhờ nó,” chị nói.
Nhờ công trình ấy, nhiều vùng cao Lai Châu đã chuyển đổi thành công từ nương ngô sang trồng dược liệu, tăng thu nhập gấp 3–5 lần, góp phần xây dựng kinh tế xanh và giữ rừng bền vững. Với đồng nghiệp, chị là “người giữ hồn cây thuốc”; với người dân, chị là “cô Hương của bản” người đem lại niềm tin vào tri thức và tương lai no ấm.
Năm gương mặt nữ tiêu biểu năm hướng nghiên cứu khác nhau, nhưng cùng hội tụ trong một điểm chung, khoa học không xa rời thực tiễn. Họ là những người mang tri thức hàn lâm hòa quyện với đời sống nông dân, là cầu nối giữa phòng thí nghiệm và đồng ruộng, giữa dữ liệu nghiên cứu và mảnh đất cấy trồng.
Từ những giống hoa rực rỡ của TS Lan Thanh, hạt lúa chống chịu mặn của TS Kiều Tiên, giải pháp sinh học của TS Thanh Phương, đến những rừng dược liệu xanh mướt của ThS Kim Hương hay công trình bền bỉ của kỹ sư Bạch Thị Vững tất cả đều minh chứng rằng phụ nữ Việt Nam đang góp phần định hình tương lai của nông nghiệp bền vững. Giữa thời đại công nghệ và biến đổi khí hậu, họ không chỉ “giữ hồn” của nông thôn Việt, mà còn mang đến một tầm nhìn mới nơi tri thức, công nghệ và con người cùng phát triển hài hòa.
Maria Goeppert-Mayer: Nhà khoa học nữ thứ hai giành Nobel Vật lý và câu chuyện ít ai biết
Là người phụ nữ thứ hai giành Nobel Vật lý, Maria Goeppert-Mayer trải qua hành trình đơn độc, làm việc không lương và bị xem nhẹ, trước khi khám phá bí mật vỏ hạt nhân làm thay đổi vật lý.