Phát triển nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
PGS. TS. Trần Quang Tiến, Giám đốc Học viện Phụ nữ Việt Nam
PGS. TS. Trần Quang Tiến, Giám đốc Học viện Phụ nữ Việt Nam

Một thời đại mới đang dần hình thành trên phạm vi toàn cầu với nhiều đặc điểm nổi bật trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội; đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức hệ trọng cho Việt Nam trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức chống chịu và thích ứng được với những biến động trên thế giới nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong phát triển đất nước. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy “thời đại mới” và “kỷ nguyên mới” dường như chỉ là sự khác biệt về tên gọi; đều được dùng để chỉ một giai đoạn mới mẻ với những tiến bộ, đổi mới, hoặc thay đổi đáng kể trên các lĩnh vực như công nghệ, xã hội, kinh tế hay chính trị, mang lại sự thay đổi lớn trong cách con người sống và làm việc. Kỷ nguyên mới ngày nay gắn với sự ra đời của lực lượng sản xuất thời kỳ công nghệ số như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing) và công nghệ chuỗi - khối (Blockchain)... Chuyển đổi số đang trở thành yêu cầu tất yếu và công nghệ số đang từng bước trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành sản xuất, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong bối cảnh thời đại mới, Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của BCH TW và Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã xác định chủ trương quyết tâm đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đây có thể xem như một thông điệp về một thời kỳ phát triển mới của nước ta trong những thập kỷ tới, nhấn mạnh quyết tâm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đất nước, tạo ra bước ngoặt lịch sử mở ra một thời kỳ phát triển mới của quốc gia. Các nghiên cứu khoa học cũng như báo cáo tổng kết thực tiễn đều khẳng định dân tộc Việt Nam đã hội tụ, tích tụ những giá trị/nguồn động lực mạnh mẽ cho bước chuyển mình lớn lao.

 Để đạt được những mục tiêu trong kỷ nguyên mới, vai trò của nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là rất quan trọng; đây là lực lượng tinh túy, cấu thành sức mạnh của quốc gia, có đóng góp quyết định vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới, bắt buộc phải phát triển nguồn nhân lực nữ, “không có phụ nữ, riêng nam giới không thể làm nổi công cuộc cách mạng”. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển nguồn nhân lực nữ, góp phần làm cho phụ nữ Việt Nam có những đóng góp ngày càng quan trọng, nổi bật vào những thành tựu đổi mới của đất nước. Trong Báo cáo Chính trị Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ các yêu cầu, nhiệm vụ: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi”. Chính sự thay đổi mạnh mẽ của các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất mới đòi hỏi những biến đổi tương ứng không thể chậm trễ đối với lực lượng lao động, trong đó có lao động nữ. Chính vì thế, Nhà nước cần tập trung phát triển nguồn nhân lực tương xứng phù hợp với yêu cầu phát triển các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất mới, bởi vì, xét đến cùng thì trong lực lượng sản xuất của xã hội thì “nguồn lực con người là quan trọng nhất” như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định.

Hội LHPN Việt Nam với chức năng đại diện cho các tầng lớp phụ nữ trong cả nước cũng đã xác định vai trò của các cấp Hội trong phát triển nguồn nhân lực nữ, thông qua “Phát động các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, tạo ra động lực mới nhằm phát huy cao nhất tinh thần dân tộc, giá trị nhân văn, truyền thống phụ nữ, khát vọng vươn lên, đổi mới sáng tạo và khả năng đóng góp của phụ nữ trong gia đình và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Đến Đại hội đại biểu PNTQ lần thứ XIII, phong trào thi đua “Xây dựng người Phụ nữ Việt Nam thời đại mới” với 4 nhóm tiêu chí: (1) Có Tri thức; (2) Có Đạo đức; (3) Có Sức khỏe; (4) Có Trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội và đất nước đã được phát động mạnh mẽ và triển khai trên khắp cả nước.

Tuy nhiên, thực trạng cho thấy nhiều vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực nữ nói riêng. Trong đó, chất lượng lao động của Việt Nam vẫn đang ở mức thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, nhất là cho những ngành kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…). Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo (có bằng cấp, chứng chỉ) còn thấp, chưa đạt 30% tổng số lực lượng lao động; tỷ lệ lao động đủ trình độ tiếng Anh để làm việc chỉ chiếm 5% lực lượng lao động và khả năng thích ứng nghề nghiệp của lực lượng lao động còn thấp, cản trở họ tham gia vào cạnh tranh trong thị trường lao động toàn cầu cũng như trong các ngành có thu nhập cao ở trong nước. Năng suất lao động, nhất là năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) còn thấp và chậm cải thiện là kết quả của nhiều vấn đề vĩ mô và vi mô, trong đó có những vấn đề từ chính nguồn nhân lực. Trong hầu hết các vấn đề của nguồn nhân lực, vấn đề của nguồn nhân lực nữ được đánh giá là trầm trọng hơn và nhiều vấn đề chậm cải thiện, còn khoảng cách lớn so với nguồn nhân lực nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ, các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực nữ, trong đó có các yếu tố, yêu cầu của kỷ nguyên mới là rất cần thiết để tìm kiếm các giải pháp, hàm ý chính sách hiệu quả cho Việt Nam trong phát triển nguồn nhân lực nữ thời gian tới.

Thực trạng nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam

Việt Nam đã thực hiện rất thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ trong gần 40 năm đổi mới. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm từ 40,4% vào năm 1990 xuống chỉ còn 11,6% vào năm 2024; kinh tế số, kinh tế xanh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Trong năm 2024, các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng, trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khá, công nghiệp phục hồi tích cực, là động lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng trên 7% trong năm. Tuy nhiên, nếu tính cho cả giai đoạn 2020 đến 2023, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã chậm lại đáng kể. Nếu các năm 2020 và 2022, tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp giảm lần lượt là 1,0 điểm phần trăm và 1,6 điểm phần trăm và tăng lên tương ứng ở hai khu vực còn lại (khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 0,5 điểm phần trăm và tăng 0,3 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 0,5 điểm phần trăm và tăng 1,2 điểm phần trăm) thì đến năm 2023 thì tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm chậm hơn, chỉ giảm 0,6 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 0,1 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 0,6 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu (Nguyễn Hồng Sơn, 2024; Nguyễn Văn Trọn, 2023) chỉ ra rằng chuyển dịch việc làm vẫn chủ yếu là từ lĩnh vực nông nghiệp năng suất thấp sang các lĩnh vực dịch vụ năng suất thấp, ít chuyển sang các lĩnh vực dịch vụ và chế tạo chế biến năng có suất cao hơn.

Bảng 1: Tình hình tham gia lực lượng lao động theo giới (triệu người, %)

Tiêu chí

2010

2015

2019

2023

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Tổng số dân số từ 15 tuổi +

  31,642

  33,600

  33,895

  35,848

  35,862

  36,765

37,010

 39,086

Tổng số dân số tham gia LLLĐ

25,946

24,528

28,133

26,133

29,371

26,397

27,869

24,507

Tỷ lệ nam (nữ) tham gia LLLĐ

       82,0

       73,0

       83,0

       72,9

       81,9

       71,8

       75,3

       62,7

Tỷ trọng trong tổng số LLLĐ

       51,4

       48,6

       51,8

       48,2

       52,6

       47,4

       53,2

       46,8

Nguồn: Tổng cục thống kê. Báo cáo điều tra LĐVL các năm 2011, 2016, 2020 và 2023

Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ phụ nữ tham gia LLLĐ cao nhất thế giới, các năm đều đạt trên 70%, trừ giai đoạn 2020-2024 do ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19. Mức trung bình của toàn thế giới về tỷ lệ nữ tham gia LLLĐ năm 2019 chỉ là 47,2%. Điều này khẳng định phụ nữ Việt Nam có vai trò rất quan trọng, không thua kém gì nam giới trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù vậy, vẫn còn một khoảng cách khá lớn giữa nam và nữ trong tham gia LLLĐ và khoảng cách này ngày càng gia tăng trong những năm trong và sau đại dịch. Thị trường lao động ở Việt Nam cũng chưa thực sự có cải thiện về chất khi số lao động phi chính thức làm các công việc bấp bênh, thiếu tính ổn định, thiếu các chính sách phúc lợi xã hội vẫn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm khoảng ba phần năm (64,5%) tổng số lao động có việc làm của cả nước. Trong đó, lao động nữ lại chiếm tỷ lệ cao hơn ở những công việc này. Một trong những nguyên nhân cơ bản làm chậm cải thiện tỷ lệ lao động làm việc khu vực chính thức là sự phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19 diễn ra chậm hơn kỳ vọng; nhiều đơn hàng bị hủy hoặc không được ký kết mới đã xảy ra trong nhiều năm gần đây đối với nhiều ngành nghề, đặc biệt ngành công nghiệp chế biến chế tạo đã làm giảm hiệu quả của các chính sách thúc đẩy chính thức hóa lao động phi chính thức. Bên cạnh đó còn có nguyên nhân đến từ vấn đề giới khi phụ nữ dành thời gian gấp đôi so với nam giới cho việc nhà (ILO, 2021) nên ít cơ hội hơn trong việc chuyển đổi sang làm việc ở khu vực chính thức.

Về chất lượng cũng như cung thị trường lao động còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng cho cầu thị trường lao động thay đổi nhanh trong bối cảnh hội nhập sâu rộng. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (có chứng chỉ từ sơ cấp trở lên) tính đến năm 2023 chỉ đạt hơn 28% LLLĐ và tăng chậm trong nhiều năm qua. Trong đó, khoảng cách giữa nam và nữ về tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ngày càng gia tăng, dẫn đến những thách thức không nhỏ đối với phụ nữ trong cạnh tranh, tìm kiểm việc làm tốt, nhất là ở độ tuổi thanh niên (18-24 tuổi). Chất lượng giáo dục cũng chưa cải thiện nhiều, với tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên tăng nhanh nhưng cũng chỉ chiếm hơn 11% LLLĐ. Tỷ lệ lao động có trình độ sơ cấp nghề cũng tăng nhanh và đứng vị trí thứ hai. Tuy nhiên, xét theo khía cạnh bình đẳng giới ở cấp học cao đẳng, đại học thì Việt Nam đang thực hiện rất tốt, hầu như không có sự khác biệt giữa nam và nữ về tỷ lệ nhập học và tốt nghiệp ra trường.

Hàng năm vẫn có từ 5% đến hơn 6% LLLĐ không có việc làm hoặc có việc làm không đầy đủ thời gian. Tính trong giai đoạn từ 2010 đến 2022, tỷ lệ thất nghiệp không thay đổi nhiều qua các năm nhưng tỷ lệ thiếu việc làm được cải thiện đáng kể (Trần Quang Tiến, 2023). Phân tách tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn đưa đến một nhận định quan trọng là những lao động có trình độ chuyên môn cao (tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng) có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn những lao động có trình độ chuyên môn thấp hơn hoặc chưa được đào tạo. Một phần lý do là nhóm lao động trình độ chuyên môn thấp dễ dàng thỏa hiệp với những công việc giản đơn, lương thấp hơn là nhóm có trình độ chuyên môn cao. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên cao nhất trong số các nhóm tuổi (năm 2023 là 7,63%, giảm 0,15 điểm phần trăm so với năm trước). Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 10,20%, cao hơn 3,91 điểm phần trăm so với khu vực nông thôn. Số thanh niên (người từ 15-24 tuổi) thất nghiệp năm 2023 là khoảng 437,3  nghìn người, chiếm 41,3% tổng số người thất nghiệp (Tổng cục Thống kê, 2023).

Số lao động không sử dụng hết tiềm năng là 2,3 triệu người. Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng 2023 là 4,3%. Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng phản ánh tình trạng dư cung về lao động hay nói cách khác là sự mất cân bằng cung – cầu trên thị trường lao động. Giai đoạn xảy ra đại dịch COVID-19 (từ quý I năm 2020 đến quý II năm 2022), tỷ lệ này lao động không sử dụng hết tiềm năng đạt mức cao kỷ lục là 10,4% vào quý III năm 2021 sau đó giảm dần và duy trì tại mức trung bình vào cuối năm 2023.

Về thực hiện các chính sách phúc lợi đối với người lao động, bên cạnh sự cải thiện ở nhiều khu vực kinh tế và quy định pháp luật khá đầy đủ, ngày càng đồng bộ, vẫn còn nhiều lao động nữ khu vực phi chính thức, nhất là lao động giúp việc gia đình chưa được hưởng các điều kiện việc làm cơ bản như lao động các khu vực khác. Trên 54% người giúp việc làm từ 10h /ngày, chỉ ¼ làm đúng 8h/ ngày, chưa đến ¼ có ký hợp đồng, thỏa thuận. Lao đông nữ có tỷ lệ tăng tham gia bảo hiểm xã hội tốt hơn nam giới nhưng tỉ lệ lao động nữ rời khỏi hệ thống bảo hiểm sớm cũng nhiều hơn (ILO, 2021). Khoảng cách giới về thu nhập tại Việt Nam đã có sự thu hẹp trong những năm gần đây (thu nhập của nữ giới vẫn thấp hơn so với nam giới từ 10 đến 15%) nhưng những phân tích chuyên sâu về khoảng cách thu nhập hầu như chưa được thực hiện, trong tính toán khoảng cách giới chưa kiểm soát được các yếu tố liên quan đến trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kinh nghiệm, vị trí việc làm và đặc biệt là năng suất lao động. Chính vì vậy các con số được tuyên bố công khai chưa có nhiều ý nghĩa.

Phụ nữ dân tộc thiểu số cũng gặp thêm các bất lợi trong tham gia thị trường lao động. Về trình độ nghề nghiệp, chỉ có 2,8% người DTTS được đào tạo ở trình độ sơ cấp nghề và 2,7% ở trung cấp nghề. Trong đó, nữ giới tham gia ở các cấp học này rất thấp, chỉ chiếm 13.6% ở sơ cấp nghề và 42.5% ở trung cấp nghề. Ở cấp học cao hơn (cao đẳng và đại học), tỷ lệ người DTTS được đào tạo ở trình độ cao đẳng và đại học là tương đối thấp, với 2% và 3.8% lần lượt cho từng trình độ. Tuy nhiên, có sự cân bằng tỷ lệ nam - nữ DTTS được đào tạo ở các cấp học này. Lao động DTTS tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, với rất ít lao động có chuyên môn kỹ thuật nên có thể khẳng định phần lớn lao động DTTS làm việc ở khu vực phi chính thức, trong đó có lao động nữ. Nhiều báo cáo đều khẳng định phụ nữ DTTS đang tiếp cận hạn chế với nhiều dịch vụ có chất lượng, các phúc lợi công cộng, nhất là về chăm sóc sức khỏe, khám thai, chữa bệnh, nước sạch, hạ tầng công nghệ thông tin…

Về lý thuyết, trong xã hội phát triển thì các doanh nghiệp là địa chỉ lớn nhất để thu hút LLLĐ của cả quốc gia nhưng khu vực này vẫn đang gặp nhiều khó khăn, với hơn 95% doanh nghiệp có quy mô nhỏ, siêu nhỏ nên khó hấp thụ số lượng lao động lớn. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, cho dù lao động trong khu vực doanh nghiệp đã tăng khoảng 1,5 lần trong hơn 10 năm kể từ năm 2010, khu vực doanh nghiệp hấp thụ chỉ hơn một phần tư tổng LLLĐ cả nước (năm 2019, lao động trong DN đạt khoảng 15 triệu người trong tổng số gần 56 triệu người trong LLLĐ).Về tỷ lệ phụ nữ tham gia làm chủ doanh nghiệp, số liệu thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết tính đến năm 2022, trong tổng số 883.000 DN đang hoạt động, toàn quốc có 263.444 doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, chiếm 29,8%. Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ có cải thiện dần qua các năm nhưng khá chậm và họ vẫn đang gặp nhiều rào cản, khó khăn trong lãnh đạo, điều hành doanh nghiệp phát triển, bao gồm các rào cản từ môi trường kinh doanh, áp lực cân bằng giữa công việc và chăm sóc gia đình, định kiến xã hội về vai trò của phụ nữ, về khả năng kinh doanh của phụ nữ và cả những phân biệt đối xử trong kinh doanh (VCCI, 2023).

Các yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực nữ trong Kỷ nguyên mới

Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được xác định bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ XIV (năm 2006) là cách tiếp cận đúng đắn và cần thiết; xuất phát từ thực trạng phát triển đất nước cũng như những cơ hội, thách thức ngày càng mạnh mẽ từ bối cảnh quốc tế. Sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đưa Việt Nam từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình, ngày càng khẳng định được vị thế, uy tín trên phạm vi toàn cầu. Mặc dù vậy, những vấn đề nội tại đã được chỉ ra trong nhiều báo cáo của Đảng, Nhà nước như: (1) điểm nghẽn từ hệ thống thể chế, pháp luật; (2) sự cải thiện năng suất các yếu tố tổng hợp; (3) sự lãng phí, thất thoát, kém hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực; (4) tỷ lệ giải ngân đầu tư công thấp; (5) các vấn đề ô nhiễm, ùn tắc giao thông… đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị mạnh mẽ, phải tạo ra thay đổi thực sự tích cực, đột phá trong thời gian tới để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, giúp Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước XHCN phát triển, có thu nhập cao.

Kỷ nguyên mới của dân tộc cũng đang đối mặt với nhiều thách thức có tính toàn cầu, nhất là về biến đổi khí hậu, ô nhiễm, rủi ro thiên tai cũng như sự gia tăng các xung đột, mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc và các vấn đề xã hội như già hóa dân số, chênh lệch giàu nghèo. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng dẫn đến những cạnh tranh gay gắt trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về kinh doanh và thị trường lao động. Mặc dù vậy, nổi bật trong kỷ nguyên mới vẫn là những tác động đến từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống xã hội: “phương thức sản xuất số, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời, quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số”.

Chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển nguồn nhân lực nữ trong kỷ nguyên mới

Chủ trương phát triển nguồn nhân lực, trong đó có nhân lực nữ luôn là một trong những nội dung quan trọng trong các nghị quyết của Đảng nhiều nhiệm kỳ gần đây. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) chỉ rõ: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII (năm 2021), Đảng chỉ rõ: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”.

Bên cạnh chính sách của Đảng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành nhiều chính sách cụ thể để phát triển NNL, bao gồm cả NLCLC. Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đã đưa ra nhiều chỉ tiêu và giải pháp quan trọng nhằm phát triển cả trí lực, kỹ năng làm việc và thể lực của lao động Việt Nam. Trong giai đoạn 2021-2030, TTCP ban hành Chiến lược quốc gia thu hút và trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định 899/QĐ-TTg) nhằm thu hút NLCLC cho khu vực Nhà nước và huy động nguồn lực cho đào tạo NNLCLC. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 841/QĐ-TTg ngày 14 tháng 7 năm 2023 về  lộ trình thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, trong đó xác định nhiều mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể về phát triển nguồn nhân lực, bao gồm kiểm soát tỷ lệ lao động (cả nam và nữ) thất nghiệp, không được đào tạo, tỷ lệ làm việc ở khu vực phi chính thức, tỷ lệ cán bộ khoa học & công nghệ, tỷ lệ cải thiện năng suất lao động… Các chỉ tiêu về phát triển bền vững của Việt Nam cũng đề cập đến các nội dung phải thực hiện liên quan đến bình đẳng giới trong chính trị (tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và tham gia quản lý nhà nước) và thu hẹp chênh lệch nam - nữ trong tham gia công việc nội trợ, chăm sóc không được trả công.

Bộ luật Lao động năm 2019 là một bước tiến lớn cho đảm bảo bình đẳng giới. Những sửa đổi quan trọng có lợi cho sự bình đẳng trong công việc như: (1) Thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ từ 5 năm xuống 2 năm và tăng tuổi nghỉ hưu cho cả hai giới; (2) Loại bỏ danh sách gần 80 loại công việc không được sử dụng lao động nữ, trong đó có 38 loại công việc bị cấm vì lý do giới tính và 39 loại công việc bị cấm dành cho phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi; (3) Kéo dài thời gian nghỉ phép của người chăm sóc cho tất cả nhân viên, không chỉ nhân viên nữ; (4) Định nghĩa rõ ràng về quấy rối tình dục, áp dụng rộng rãi hơn cho bất kỳ địa điểm làm việc nào;(5) quy định nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong việc đảm bảo trả lương bình đẳng cho những công việc có giá trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào về giới tính.

Bên cạnh các chính sách chung cho tất cả các đối tượng, Đảng và Nhà nước cũng ban hành nhiều chính sách đặc thù cho từng nhóm phụ nữ. Liên quan đến nữ công nhân, Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/01/2008 của BCH TW Đảng (khóa X) về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đã đề ra nhiệm vụ: Đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành công nghiệp mới; tăng nhanh tỉ lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ nông dân và nữ công nhân. Bộ Luật Lao động, Nghị định số 85/2015/NĐ-CP của Chính phủ cũng quy định chi tiết một số chính sách đối với lao động nữ. Ngày 07/11/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định 153/2018/NĐ-CP quy định chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ năm 2018 đến năm 2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm. Liên quan đến nữ nông dân, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 của BCH TW Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đề ra một trong những nhiệm vụ và giải pháp là thực hiện bình đẳng giới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, năng lực và vị thế của phụ nữ ở nông thôn. Liên quan đến nữ chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; đến năm 2017, Quốc hội đã ban hành Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó có nguyên tắc ưu tiên hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ, bên cạnh các quy định về hỗ trợ tư vấn; hỗ trợ đào tạo trực tiếp về khởi sự kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; hỗ trợ đào tạo trực tiếp tại DNNVV trong lĩnh vực sản xuất, chế biến cho các SME do phụ nữ làm chủ. Liên quan đến nữ thanh niên, Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 25/7/2008 của BCH TW Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng là tạo cơ hội cho thanh niên được thụ hưởng chính sách giáo dục, chú trọng tới nữ thanh niên, thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên nông thôn, thanh niên khuyết tật. Liên quan đến nữ dân tộc thiểu số, Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 15/6/2016 của Chính phủ đề cập đến chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực dân tộc thiểu số gắn với việc làm, nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt, ngày 14/10/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, trong đó có dành riêng dự án 8 để “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”.

Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực nữ trong kỷ nguyên mới

Trong bài viết của mình, Tổng bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ sự cần thiết phải “Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (Tô Lâm, 2024). Để thực hiện được các yêu cầu trên đối với nguồn nhân lực nữ cần quan tâm thực hiện các giải pháp ưu tiên sau đây:

Thứ nhất, xuất phát từ các yêu cầu, mục tiêu trong kỷ nguyên mới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần ban hành các chiến lược, kế hoạch chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia, trong đó xác định rõ các mục tiêu, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, bao gồm cả nguồn nhân lực nữ trong từng giai đoạn và có các chính sách để đa số LLLĐ đạt được các năng lực nghề nghiệp và có thể tham gia ngày càng nhiều vào thị trường lao động toàn cầu cũng như cải thiện tình trạng có việc làm tốt ở trong nước. Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia cần phân tích sâu thực trạng cơ cấu lao động, năng lực nghề nghiệp theo từng lĩnh vực kinh tế- xã hội; xu hướng dịch chuyển ngành/ nghề trong kỷ nguyên mới để có kế hoạch hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp, hướng tới những cải thiện tỷ lệ lao động có việc làm tốt, làm việc ở những ngành có giá trị gia tăng cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thứ hai, đẩy mạnh quy mô, nâng cao hiệu quả giáo dục nghề nghiệp và đào tạo nghề cho phụ nữ. Bên cạnh việc tăng cường các khóa đào tạo nâng cao nhận thức, phổ cập các kỹ năng mềm, ngoại ngữ, giao tiếp và năng lực số để đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới; các khóa đào tạo chuyên môn nghề cần gắn chặt với nhu cầu của người lao động, kết nối chặt chẽ với cầu lao động từ doanh nghiệp. Bên cạnh việc hỗ trợ các cơ sở đào tạo nghề đã được khẳng định về chất lượng và tỷ lệ cao người học có việc làm phù hợp, nhà nước cần khuyến khích mạnh mẽ hơn vai trò tham gia đào tạo của doanh nghiệp gắn với tuyển dụng học viên sau đào tạo.

Thứ ba, cải thiện mạnh mẽ hơn hệ thống chính sách, pháp luật, môi trường kinh doanh cũng như các bộ phận khác của hệ sinh thái để thúc đẩy phụ nữ khởi nghiệp, phát triển kinh doanh và chuyển đổi chính thức các hộ kinh doanh cá thể. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ cao lao động nữ làm việc trong khu vực phi chính thức, thiếu việc làm, việc làm thu nhập thấp là vì số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam chưa nhiều, quy mô doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ. Việc cải thiện số lượng, quy mô doanh nghiệp sẽ giúp hấp thụ và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực nữ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu, rộng.

Thứ tư, ưu tiên triển khai chính sách hỗ trợ các nhóm lao động nữ làm việc khu vực phi chính thức, phụ nữ yếu thế và phụ nữ ở khu vực nông thôn, dân tộc thiểu số. Việc hỗ trợ nâng cao năng lực nghề nghiệp, năng lực số cho các nhóm phụ nữ trên sẽ giúp họ tiếp cận những dịch vụ và cơ hội tốt hơn về giáo dục, việc làm, chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống; từ đó giảm thiểu khoảng cách, phân hóa giữa các tầng lớp trong xã hội.

Cuối cùng, tiếp tục thực hiện các hoạt động nhằm thay đổi các khuôn mẫu, định kiến và phân biệt đối xử về giới trong xã hội để phụ nữ thực sự được giải phóng áp lực công việc gia đình, được trao cơ hội bình đẳng để phát huy hết tiềm năng, thế mạnh đóng góp vào sự phát triển giàu mạnh của đất nước và thụ hưởng các lợi ích công cộng, chính sách an sinh xã hội ngày càng tốt hơn.

PGS. TS. Trần Quang Tiến

Các nhà nghiên cứu Australia tìm ra cách vô hiệu hóa các đột biến gene gây ung thư

Các nhà nghiên cứu Australia tìm ra cách vô hiệu hóa các đột biến gene gây ung thư

Đây là một đột phá quan trọng, vì các đột biến gene trong nghiên cứu đều là các biến thể nucleotide đơn, gây ra sự phát triển tế bào mất kiểm soát.