Bài viết của Victoria Kwakwa, Phó chủ tịch phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương tại Ngân hàng Thế giới.
Bà Kwakwa trước đây là Giám đốc quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, giám sát danh mục cho vay trị giá hàng tỷ USD và một chương trình kiến thức đổi mới.
Trong bài phân tích của mình đăng trên SCMP, bà Victoria Kwakwa nhận định, trong nhiều thập kỷ, khu vực Đông Á và Thái Bình Dương duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đồng thời đưa hàng trăm triệu người thoát khỏi đói nghèo.
Phần lớn năm 2020, một vài quốc gia trong khu vực bị ảnh hưởng bởi COVID-19. Nhưng giờ đây, khi triển vọng phục hồi nhanh chóng sau đại dịch toàn cầu đang rút đi, khu vực này có nguy cơ mất vị thế.
COVID-19 tiếp tục đến các quốc gia, đánh vào lĩnh vực kinh doanh và sinh kế, đồng thời đưa các cộng đồng vào một "cuộc đua tốc độ" về việc đóng cửa và mở cửa trở lại.
Tăng trưởng kinh tế, trong khi phục hồi từ mức thấp của năm 2020, là rất không đồng đều giữa các quốc gia và giữa các lĩnh vực.
Việc triển khai tiêm chủng trong một số nơi đang diễn ra chậm do tình trạng thiếu hụt nguồn cung và các hạn chế về hậu cần.
Nó không cần phải theo cách này. Khi tôi viết điều này, kết thúc chuyến thăm đầu tiên của tôi đến châu Á kể từ khi bắt đầu đại dịch, tôi được nhắc nhở về năng lực và khả năng phục hồi đáng kể của khu vực.
Tôi cũng tin rằng có một yếu tố quan trọng không nhận được sự quan tâm xứng đáng: hợp tác khu vực. Làm việc cùng nhau về cơ bản có thể đẩy nhanh sự phục hồi ở Đông Á và Thái Bình Dương.
Tác giả cho rằng có ba cơ hội rõ ràng để hợp tác.
Một, kết thúc đại dịch. Khu vực này có thể làm việc cùng nhau trong việc sản xuất và triển khai vaccine trong bối cảnh toàn cầu với sự hợp tác và cung cấp nhiều hơn. Một số quốc gia, bao gồm Indonesia, Thái Lan và Việt Nam, đang xem xét việc mở rộng năng lực sản xuất.
Tăng cường phối hợp có thể cho phép khớp cung và cầu tốt hơn và nhắm mục tiêu đến nơi có nhu cầu lớn nhất. Và tinh thần hợp tác này có thể được mở rộng ngoài vaccine đến các nguồn cung cấp thiết yếu khác, chẳng hạn như thiết bị bảo hộ cá nhân, khẩu trang và bộ dụng cụ xét nghiệm.
Các nỗ lực cũng có thể được thực hiện để mở rộng chia sẻ thông tin, tập trung vào các phương pháp hay nhất để ngăn chặn, kiểm tra và truy tìm.
Sự hợp tác như vậy là chưa từng có tiền lệ và có thể được xây dựng dựa trên các cơ chế khu vực hiện có, chẳng hạn như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 'khung khôi phục COVID-19 toàn diện. Nỗ lực chấm dứt đại dịch càng rộng thì toàn bộ khu vực có thể càng nhanh mở cửa trở lại.
Thứ hai, sự hợp tác cũng cần thiết trong việc phục hồi nền kinh tế.
Thất nghiệp tăng đột biến ở Đông Á và Thái Bình Dương kể từ đầu năm 2020 khi toàn bộ các lĩnh vực và ngành công nghiệp, bao gồm cả du lịch, vẫn đóng cửa.
Các chính phủ đã tăng cường kích thích tài khóa và các chương trình bảo trợ xã hội, nhưng những nỗ lực này thường không đạt được hiệu quả khi các nền kinh tế phải vật lộn để đối phó với những đợt nhiễm trùng gần đây nhất.
Nếu các quốc gia trong khu vực và trên toàn cầu có thể phối hợp tốt hơn các chính sách tài khóa và tiền tệ của mình, thì tác động sự nỗ lực của họ sẽ lớn hơn tổng các phần riêng lẻ - và mỗi quốc gia sẽ sẵn sàng làm nhiều hơn khi các nước láng giềng được thấy đang chia sẻ gánh nặng.
Một khi đã an toàn, các quốc gia có thể xem xét mở bong bóng du lịch, kết hợp với các yêu cầu về chủng ngừa và xét nghiệm để hồi sinh ngành du lịch và khách sạn.
Một khi sự phục hồi diễn ra mạnh mẽ, những nền kinh tế đang đối mặt với tình trạng thiếu lao động có thể tìm cách đưa lao động trở lại từ các nước láng giềng, đồng thời cải thiện các điều kiện về sức khỏe và an toàn để tránh bất kỳ sự bùng phát nào tiếp theo giữa các cộng đồng này.
Tuy nhiên, những công việc như vậy sẽ phụ thuộc một phần vào sự hồi sinh của các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Trong khi đầu tư công chỉ giảm nhẹ, sự tham gia của tư nhân vào các dự án cơ sở hạ tầng ở Đông Á - vốn đã thấp so với các khu vực khác (ở mức 2% so với mức trung bình 20% đối với các nước đang phát triển trên toàn cầu ngoại trừ Trung Quốc) - đã giảm 75% aăm 2020 so với năm 2019.
Trong tương lai, chúng ta sẽ cần sự cam kết mạnh mẽ từ cả khu vực nhà nước và tư nhân để mở rộng cơ sở hạ tầng bền vững.
Điều này có thể được thúc đẩy bởi của khu vực nhằm khai thác các nguồn vốn tư nhân và nợ đang tìm kiếm cơ hội đầu tư cơ sở hạ tầng xanh với lợi nhuận hợp lý và an toàn, đồng thời bằng cách cải thiện kết nối khu vực và hậu cần để giảm chi phí chuỗi cung ứng và nâng cao hiệu quả.
Ngoài cơ sở hạ tầng cứng, trong khu vực còn có tiềm năng to lớn để mở rộng các nỗ lực cho các giải pháp dựa trên thiên nhiên.
Đây là những hành động nhằm bảo vệ, quản lý bền vững và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên và bị suy thoái - như rừng, rừng ngập mặn và đất ngập nước - có thể mang lại lợi ích về khí hậu, phúc lợi cho con người và đa dạng sinh học.
Thứ ba, hội nhập khu vực có thể được làm sâu sắc hơn. Thời kỳ đầu của đại dịch COVID-19, người ta đã nói nhiều về sự gián đoạn của chuỗi giá trị toàn cầu, do nhập khẩu bị gián đoạn và một số quốc gia phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt.
Ngược lại, nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy việc liên kết chặt chẽ vào các chuỗi giá trị toàn cầu đã làm giảm tính dễ bị tổn thương của các nền kinh tế Đông Á trong thời kỳ đại dịch, và cú sốc COVID-19 trên thực tế đã làm nghiêm trọng thêm hội nhập thương mại của khu vực.
Cơ hội bây giờ là để xây dựng dựa trên điều này, thông qua các cải cách sẽ mở ra các lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ được bảo hộ để cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Các quốc gia như Indonesia, với cải cách cơ cấu thương mại và đầu tư, và Philippines, quốc gia đã tăng cường ưu đãi thuế và đang xem xét tự do hóa bán lẻ và các lĩnh vực khác, đang mở đường.
Nếu các quốc gia có thể nhanh chóng và cùng nhau hợp tác về cung cấp và phân phối vaccine và các vật tư y tế quan trọng khác, về các biện pháp phục hồi nền kinh tế và về các chính sách để hội nhập sâu rộng hơn trong khu vực, thì phần lớn niềm tin quốc tế đã mất đi trong đại dịch có thể được khôi phục.
Cuộc sống sẽ an toàn hơn và sinh kế sẽ được đảm bảo. Và Đông Á và Thái Bình Dương có thể duy trì vị trí xứng đáng của mình như một trong những khu vực năng động, sáng tạo và kết nối với nhau nhất thế giới.