Đến cuối 2021, toàn hệ thống TCTD xử lý được trên 1.300 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD trong giai đoạn 2016-2021 được duy trì dưới mức 3%. Năm 2022, hàng loạt “cây đũa thần” xử lý nợ xấu sắp hết hạn khiến nguy cơ nợ xấu bùng phát trở lại.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, năm 2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng 1,9%; tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu là 3,79%. Nếu tính cả các khoản nợ đến hạn mà chưa trả được cơ cấu theo Thông tư 01, 03, 14 cũng như nguy cơ chuyển thành nợ xấu thì tỷ lệ này có thể tăng lên 7,31%.
Đại dịch COVID-19 khiến doanh nghiệp khó khăn, không trả được nợ ngân hàng, dẫn đến nợ xấu có xu hướng tăng cao trở lại. Các TCTD dự đoán, nợ xấu sẽ tăng cao hơn nữa trong năm 2022 do dịch bệnh vẫn phức tạp, khó lường. Báo cáo tài chính hợp nhất của một số ngân hàng thương mại cho thấy, nợ xấu (nhóm 3, 4, 5) trong năm 2021 tăng hàng nghìn tỷ đồng so với năm 2020.
Thậm chí, có những ngân hàng tích cực, chủ động trích lập dự phòng rủi ro cho toàn bộ các khoản nợ cơ cấu theo Thông tư 14 trước thời hạn như Vietcombank, BIDV... Điều này cho thấy, sức khoẻ của ngành ngân hàng đã tốt hơn rất nhiều và rủi ro nợ xấu chưa đáng quan ngại.
Tại Hội thảo “Cần Luật hóa Nghị quyết 42 để giải bài toán xử lý nợ xấu ngân hàng” ngày 19/2, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư kí Hiệp Hội Ngân Hàng cho biết, sau 5 năm thực hiện, Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng (TCTD) mang lại nhiều kết quả. Nghị quyết cho phép tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm; mua bán nợ xấu và tài sản bảo đảm theo giá thị trường; cho phép Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm.
Đồng thời, Nghị quyết cũng quy định rõ về phương thức xử lý nợ xấu trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, bất động sản bị kê biên; quy định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm; quy định nghĩa vụ thuế, phí khi chuyển nhượng tài sản bảo đảm… Nhờ vậy, tính đến cuối năm 2021, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được trên 1.300 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Trong đó, giai đoạn 2012-2015 xử lý được 493,1 nghìn tỷ đồng; giai đoạn 2016-2021 xử lý được trên 800 nghìn tỷ đồng. Tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng 368,9 nghìn tỷ đồng (không bao gồm nợ xấu xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro).
Số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý thu hồi trong giai đoạn từ ngày 15/8/2017 đến cuối năm 2021, đạt trung bình khoảng 6,92 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 3,94 nghìn tỷ đồng/tháng so với giai đoạn trước khi có Nghị quyết số 42 (giai đoạn năm 2012 - 2017). Mặc dù ngành ngân hàng đã rất nỗ lực nhưng dịch Covid-19 bùng phát khiến nợ xấu quay lại sớm hơn dự kiến. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho VAMC thì con số này là 3,9%. Đáng chú ý, tỷ lệ nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 từ mức 5,1% cuối năm 2020 và gần tương đương với con số cuối năm 2017 (7,4%) - cũng là năm mà Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực.
Cũng đề xuất các nội dung cần thiết luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, cơ quan soạn thảo xây dựng theo hướng quy định cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn áp dụng quy định của Luật Xử lý nợ xấu để xử lý các khoản nợ xấu phát sinh trước khi Luật về xử lý nợ xấu được thông qua, có hiệu lực.
Tổng Hợp