Hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo cơ hội cho nữ trí thức phát huy vai trò sáng tạo và phát triển trong tình hình mới

Trong kỷ nguyên phát triển bùng nổ, nữ trí thức Việt Nam đang vươn mình mạnh mẽ, khẳng định vai trò và vị thế không thể phủ nhận trong việc định hình tương lai đất nước.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo cơ hội cho nữ trí thức phát huy vai trò sáng tạo và phát triển trong tình hình mới. Ảnh minh họa được tạo bởi AI
Hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo cơ hội cho nữ trí thức phát huy vai trò sáng tạo và phát triển trong tình hình mới. Ảnh minh họa được tạo bởi AI

Nữ trí thức là bộ phận tinh hoa trong lực lượng phụ nữ lao động trí óc, thuộc mọi thành phần dân tộc, được đào tạo bài bản, tiếp cận trình độ khoa học – công nghệ hiện đại, có năng lực nghiên cứu, tư duy phản biện và cảm quan sâu sắc với các vấn đề xã hội. Họ là những người kiến tạo tri thức, góp phần quan trọng vào các thành tựu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của đất nước. Nhiều nữ trí thức đang giữ trọng trách tại các cơ quan nghiên cứu, giáo dục và hoạch định chính sách. Bằng lao động trí tuệ và sáng tạo, họ không chỉ tạo ra các giá trị vật chất - tinh thần, mà còn là nguồn lực đặc biệt thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bài viết này tập trung phân tích chính sách, pháp luật đối với nữ trí thức ở Việt Nam thời gian qua, đồng thời gợi mở một số vấn đề nhằm hoàn thiện pháp luật về đội ngũ nữ trí thức trong kỷ nguyên mới của đất nước.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc phát huy vai trò của nữ trí thức không chỉ là yêu cầu khách quan của sự phát triển bền vững, mà còn là biểu hiện sinh động của tiến bộ xã hội và bình đẳng giới - những giá trị cốt lõi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trí tuệ, bản lĩnh và sự kiên định của nữ trí thức không chỉ thể hiện ở kết quả nghiên cứu hay sáng chế được ứng dụng vào thực tiễn, mà còn được khẳng định qua vai trò dẫn dắt, truyền cảm hứng trong cộng đồng khoa học, giáo dục và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, để đội ngũ nữ trí thức phát triển tương xứng với tiềm năng và đóng góp của họ, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn trong đào tạo, sử dụng, tôn vinh và phát triển bền vững nguồn lực đặc biệt này.

Nhận thức được vị trí vai trò của nữ trí thức trong sự phát triển, Đảng và Nhà nước Việt Nam có nhiều chính sách, quy định nhằm tôn vinh những cống hiến của các chị; đồng thời khích lệ, tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho nữ trí thức tham gia toàn diện và phát triển trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học và công nghệ. Hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của nữ trí thức trong khuôn khổ thể chế, cơ chế ở Việt Nam hiện nay có những thuận lợi và cả những rào cản xuất phát từ nhiều phương diện. Mặc dù sự chỉ đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã dành những quan tâm ở mức độ nhất định đến phụ nữ nói chung, nữ trí thức nói riêng. Tuy nhiên tính đặc thù - tính nữ (giới tính và giới) khi xây dựng và hoạch định chính sách tạo cơ cơ hội cho nữ trí thức phát huy vai trò sáng tạo và phát triển trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cần được xem xét và đặt nó trong các mối quan hệ chung - riêng. Nữ trí thức vừa là phụ nữ (bộ phận hợp thành của Phụ nữ Việt Nam), vừa là trí thức (bộ phận hợp thành của đội ngũ trí thức Việt Nam), cả hai sự “hợp thành” này tạo nên “con người” nữ trí thức.

Nội dung của nghiên cứu này tập trung: (i) Khẳng định vị thế của nữ trí thức Việt Nam; (ii) Điểm cơ bản của chính sách, pháp luật Việt Nam về nữ trí thức; (iii) Một số gợi mở cho việc hoàn thiện chính sách, pháp luật Việt Nam nhằm tạo cơ hội để nữ trí thức phát huy vai trò sáng tạo và phát triển.

NỘI DUNG

Nữ trí thức trong sự phát triển ở Việt Nam hiện nay

Trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, phụ nữ không chỉ là người giữ gìn và tái tạo sự sống mà còn là lực lượng đồng hành, kiến tạo tri thức và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Ở nhiều quốc gia, nữ giới ngày càng khẳng định vai trò chủ động trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo. Với tinh thần cống hiến bền bỉ, sức sáng tạo mạnh mẽ và bản lĩnh vượt qua định kiến giới, phụ nữ đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với người Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ không chỉ gắn với phẩm chất truyền thống mà còn gắn với tri thức, trí tuệ và khát vọng phát triển đất nước trong thời đại mới.

Nữ trí thức Việt Nam - bộ phận tinh hoa trong lực lượng lao động trí óc - hiện diện ở hầu hết các lĩnh vực từ khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, nghệ thuật đến kinh tế và quản trị xã hội. Họ là những người có trình độ học vấn cao, tư duy độc lập, sáng tạo, góp phần lan tỏa và làm giàu tri thức xã hội. Nhiều nữ trí thức đã và đang chủ trì các nhiệm vụ khoa học ở quy mô quốc gia, cấp bộ, ngành, địa phương; tạo ra các sản phẩm có giá trị thực tiễn cao, góp phần nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Không ít người trong số họ giữ vai trò lãnh đạo, hoạch định và triển khai chủ trương, chính sách tại các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao chất lượng quản trị và điều hành. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và sáng tạo, nữ trí thức còn đóng vai trò quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao dân trí và phát hiện, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Trong quá trình đó, nhiều sản phẩm khoa học, công nghệ và sáng tạo nghệ thuật của họ mang tính ứng dụng và giá trị kinh tế cao, nhưng vẫn chưa được thương mại hóa tương xứng. Đây là thực tiễn cho thấy tiềm năng lớn của lực lượng này cần được khơi dậy và phát huy hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới.

Dù còn phải đối mặt với những rào cản từ định kiến xã hội và cơ chế chính sách chưa thực sự bình đẳng, nhưng nữ trí thức Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò là nhân tố quan trọng thúc đẩy đổi mới, phát triển và tiến bộ xã hội. Họ không chỉ góp phần tạo ra các giá trị vật chất - tinh thần, mà còn tham gia tích cực vào việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, khẳng định vai trò trong hệ thống chính trị và quản lý nhà nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rõ: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” và “Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc” (1); đồng thời, xác định nhiệm vụ: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp “nguyên khí quốc gia” (2). Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục đề cao vai trò của trí thức - trong đó có nữ trí thức - là lực lượng then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Trong bối cảnh phát triển mới, khi đất nước đặt mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, đội ngũ nữ trí thức cần được coi là nguồn lực chiến lược, có vai trò đặc biệt trong thúc đẩy chuyển đổi số, kinh tế tri thức và văn minh chính trị. Đầu tư cho nữ trí thức cũng chính là đầu tư cho tương lai phát triển bền vững của quốc gia dân tộc.

Chính sách, pháp luật Việt Nam hiện nay về nữ trí thức

Việc đánh giá đúng, đặt trọng trách và tôn vinh đội ngũ nữ trí thức không chỉ là sự ghi nhận những cống hiến lớn lao của họ cho sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn góp phần tạo động lực cho các nữ trí thức tiếp tục tâm huyết, sáng tạo và tỏa sáng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xuất phát từ vai trò đặc biệt của nữ trí thức đối với sự phát triển xã hội và hội nhập quốc tế, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dành những quan tâm sâu sắc đến đội ngũ này.

Thứ nhất, trong định hướng phát triển quốc gia, Việt Nam kiên định mục tiêu phát triển bền vững, xác lập khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đồng thời nhất quán đề cao vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc xây dựng đội ngũ nữ trí thức được coi là một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định rõ: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” (3). Từ đó, Đảng ta đề ra yêu cầu: “Có chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, trí thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số và trí thức nữ” (4). Đồng bộ với định hướng trên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030, trong đó nêu rõ nhiệm vụ: “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước” (5). Cụ thể trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực nữ chất lượng cao, Chiến lược đặt ra mục tiêu: “Tỷ lệ nữ thạc sĩ trong tổng số người có trình độ thạc sĩ đạt không dưới 50% từ năm 2025 trở đi. Tỷ lệ nữ tiến sĩ trong tổng số người có trình độ tiến sĩ đạt 30% vào năm 2025 và 35% vào năm 2030” (6). Mặt khác, Luật Bình đẳng giới năm 2006 tại Điều 15 cũng quy định rõ: Nam, nữ được bình đẳng trong việc tiếp cận và ứng dụng khoa học, công nghệ, được tham gia các khóa đào tạo, phổ biến, ứng dụng kết quả nghiên cứu, sáng chế, phát minh (7). Bên cạnh đó, nhiều nghị quyết, văn kiện quan trọng khác tiếp tục nhấn mạnh việc phát triển đội ngũ trí thức nữ, như: Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cùng với Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật hiện hành đã và đang thể hiện sự quan tâm đồng bộ đến chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức, trong đó có đội ngũ nữ trí thức - những người mang trong mình tiềm năng đặc biệt để kiến tạo tương lai của đất nước.

Thứ hai, một số chính sách về sử dụng, trọng dụng và ưu đãi đối với nữ trí thức đã ban hành có những điểm nhấn quan trọng, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho các cơ quan, tổ chức, chính quyền các cấp tăng cường thực thi cơ chế nhằm phát triển đội ngũ này. Các quy định trong Luật Khoa học và Công nghệ, Quyết định số 08/QĐ-BKHCN ban hành Quy chế thi đua - khen thưởng của Bộ Khoa học và Công nghệ, hay Thông tư số 08/TT-BNV ngày 27/10/2017 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 91/2017/NĐ-CP,... đều thể hiện rõ định hướng điều chỉnh nhằm phát triển toàn diện đội ngũ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng.

Ba là, để nữ trí thức có thêm điều kiện thời gian tiếp tục cống hiến, Nhà nước đã ban hành một loạt chính sách kéo dài tuổi công tác cho những người có trình độ cao. Cụ thể, Nghị định số 141/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học và Nghị định số 50/2022/NĐ-CP quy định tuổi nghỉ hưu cao hơn đối với viên chức nữ trong đơn vị sự nghiệp công lập. Những quy định này tạo cơ sở cho việc duy trì và phát huy vai trò của nữ trí thức lâu dài hơn trong các cơ sở giáo dục, nghiên cứu. Đồng thời, Nghị định số 40/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành các Điều 19, Điều 22, Điều 23 của Luật Khoa học và Công nghệ về chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ, đào tạo nhân lực, nhân tài hoạt động khoa học và công nghệ cũng đã đề cập đến kéo dài thời gian công tác, đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và tính tương quan giữa vị trí việc làm và tuổi nghỉ hưu của nữ trí thức so với viên chức bình thường.

Bốn là, nhằm từng bước xóa bỏ rào cản giới trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, Điều 3 Nghị định 40/2014/NĐ-CP nhấn mạnh: “Tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi cho cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ phát huy tối đa năng lực và được hưởng lợi ích xứng đáng với kết quả hoạt động khoa học và công nghệ” (8) và “Nhà nước bảo đảm nguồn lực để thực hiện chính sách sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ”(9). Cùng với đó, theo Luật Khoa học và Công nghệ, các nhà khoa học nữ được thụ hưởng chính sách ưu đãi về môi trường làm việc, lương, phụ cấp, thuế, trang thiết bị, chế độ miễn trừ trách nhiệm dân sự trong những trường hợp rủi ro khoa học xảy ra ngoài ý muốn, cho dù đã tuân thủ đúng quy trình nghiên cứu (10).

Năm là, đối với những nhà khoa học nữ giữ vai trò đầu ngành, Luật khoa học và công nghệ quy định một số ưu tiên: Chủ trì các nhiệm vụ khoa học - công nghệ cấp quốc gia, được thành lập và dẫn dắt nhóm nghiên cứu xuất sắc, được cấp kinh phí nghiên cứu, và đặc biệt là có quyền tham gia phản biện độc lập, xây dựng chính sách trong ngành và quốc gia về khoa học và công nghệ. Các nhà khoa học nữ trong nhóm này còn được hưởng phụ cấp đặc biệt, được hỗ trợ kinh phí tham dự hội nghị trong và ngoài nước – những cơ hội thiết yếu để kết nối tri thức và hội nhập học thuật quốc tế (11).

Sáu là, cơ chế đặc biệt cũng được thiết kế nhằm hỗ trợ nữ trí thức khi tham gia hoặc chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia có tính chất đặc biệt quan trọng. Theo đó, họ có quyền thỏa thuận phụ cấp ưu đãi, được bố trí nhà ở công vụ, phương tiện làm việc; được đề xuất phân bổ nhân lực, kinh phí, mua sáng chế, tài liệu phục vụ nghiên cứu và hoàn toàn chủ động trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao (12). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao vị thế và bảo đảm điều kiện làm việc tương xứng với vai trò của họ.

Bẩy là, một điểm nhấn đáng chú ý trong chính sách phát triển nữ trí thức là việc tạo hành lang pháp lý ưu tiên cho nhà khoa học nữ trẻ có tài năng. Luật Khoa học và Công nghệ đã tạo các điều kiện khuyến khích nhóm này, bao gồm: Ưu tiên xét cấp học bổng trong và ngoài nước; hỗ trợ thành lập nhóm nghiên cứu xuất sắc trong lĩnh vực chuyên môn của mình và được hỗ trợ kinh phí; được ưu tiên giao chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ tiềm năng và các nhiệm vụ khoa học, công nghệ khác; được hỗ trợ toàn phần kinh phí tham dự hội thảo, hội nghị chuyên ngành trong nước và quốc tế (13). Đây là cách thức đầu tư dài hạn, chiến lược nhằm bồi dưỡng “nguyên khí quốc gia” từ sớm.

Như vậy, thông qua các chính sách và pháp luật, có thể khẳng định, trong quá trình vận động và phát triển, với những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và truyền thống Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã dành những quan tâm đặc biệt đến đội ngũ trí thức nói chung, cộng đồng nữ trí thức nói riêng. Hệ thống thể chế, các quyết sách dù mang tính chất chỉ đạo hay tổ chức thực thi đều hướng đến mục tiêu phát huy hơn nữa vai trò, khẳng định vị thế, tạo cơ hội và những tiền đề quan trọng để nữ trí thức Việt Nam ngày càng tỏa sáng trên tất cả các lĩnh vực.

Gợi mở cho việc hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo điều kiện để nữ trí thức phát huy vai trò và khả năng sáng tạo

Trong những năm gần đây, hệ thống chính sách và định hướng phát triển đội ngũ trí thức - đặc biệt là nữ trí thức - tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm sâu sắc, thể hiện qua việc ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm thúc đẩy hoàn thiện khung pháp lý, đồng thời khơi dậy và phát huy hiệu quả tiềm năng, trí tuệ, khát vọng cống hiến của lực lượng này trong thời kỳ mới.

Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới đã đặt ra một định hướng rõ ràng: “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, tôn vinh nhằm khơi dậy tiềm năng, trí tuệ, sức sáng tạo, tinh thần khởi nghiệp, khát vọng của đội ngũ nữ lãnh đạo quản lý, nữ trí thức, nữ cán bộ khoa học, nữ doanh nhân”. Đây là cơ sở chính trị quan trọng cho việc lồng ghép bình đẳng giới vào các chiến lược phát triển nhân lực chất lượng cao, đồng thời nhấn mạnh vai trò then chốt của nữ trí thức trong tiến trình đổi mới, sáng tạo và hội nhập. Tiếp nối tinh thần đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã xác định đội ngũ trí thức là “trung tâm, hạt nhân” của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là lực lượng giữ vai trò quyết định trong xây dựng nền kinh tế tri thức, phát triển văn hóa dân tộc và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đặt trong bối cảnh hiện nay, việc tập hợp, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức – bao gồm cả nữ trí thức – không chỉ là yêu cầu phát triển tất yếu, mà còn là biểu hiện sinh động của việc hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh của trí thức trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trên tinh thần ấy, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã khẳng định mạnh mẽ: “Tôn trọng, phát huy tự do tư tưởng, học thuật, thực hành dân chủ trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo; trọng dụng nhân tài, trí thức tinh hoa, nhà khoa học đầu ngành chính là tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và động lực căn bản để xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức và phát huy vai trò, vị trí và sự cống hiến của trí thức, thực sự xứng tầm là nguyên khí quốc gia” (15). Đây là một quan điểm chỉ đạo có tính nền tảng, thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy về chính sách, pháp luật phát triển trí thức, đặt nữ trí thức vào vị thế được ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm cơ hội phát triển bình đẳng.

Xây dựng đội ngũ nữ trí thức đáp ứng yêu cầu của sự phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới, một trong những yếu tố quan trọng, quyết định là phải có hệ thống chính sách, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và toàn diện nhằm ghi nhận, tôn vinh những cống hiến của nữ trí thức, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong các hoạt động thu hút, trọng dụng, chăm sóc sức khỏe, bảo đảm môi trường làm việc, đào tạo, bồi dưỡng đối với nữ trí thức.

Thứ nhất, Mặc dù trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát huy vai trò và thúc đẩy sự phát triển của đội ngũ trí thức nói chung, bao gồm cả nữ trí thức, song thực tế cho thấy vẫn chưa có một chính sách riêng biệt, chuyên sâu dành cho lực lượng nữ trí thức. Hiện nay, nữ trí thức chủ yếu thụ hưởng các chính sách chung áp dụng cho toàn bộ đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học và công nghệ, mà chưa có những cơ chế đặc thù, thiết kế riêng phù hợp với đặc điểm giới tính và những yêu cầu phát triển của nữ trí thức trong bối cảnh mới. Các quy định hiện hành chủ yếu tập trung điều chỉnh các lĩnh vực, quan hệ, hoạt động chung của giới trí thức, chưa làm nổi bật tính đặc thù về giới trong nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo. Một ví dụ điển hình là Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, tuy đã đề cập toàn diện đến đội ngũ trí thức, nhưng cũng chưa thể hiện tính đặc thù và các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò và phát huy vai trò của nữ trí thức trong thực tiễn. Bên cạnh đó, rà soát hệ thống pháp luật cũng cho thấy, các quy phạm pháp luật hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc quy định những vấn đề chung về phụ nữ, về cán bộ khoa học và công nghệ, về bình đẳng giới trong các lĩnh vực mà chưa điều chỉnh được phương diện, tính đặc thù như: Điều kiện, môi trường làm việc, yếu tố tâm lý, sức khỏe, thậm chí cả nhận thức của xã hội về nữ trí thức.

Những vấn đề nêu trên chỉ ra rằng, cần nghiên cứu và thúc đẩy xây dựng mới chính sách về nữ trí thức/nhà khoa học nữ. Chính sách này là cơ sở để ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các đạo luật hiện hành nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển và cống hiến của đội ngũ nữ trí thức. Khi ban hành mới, nội dung chính sách phải thể hiện bằng những quy định trực tiếp, cụ thể về những vấn đề liên quan đến hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, các yếu tố tác động và cả những điều kiện cần thiết phục vụ cho nữ trí thức làm việc và cống hiến. Bên cạnh đó, khi xây dựng mới chính sách đối với nữ trí thức cần nhận thức và thể hiện yếu tố đặc thù về thể chất, tâm lý - xã hội, vai trò của phụ nữ trong gia đình để bảo đảm cho việc thực hiện lồng ghép giới một cách thực chất và có hiệu quả. Nội dung của chính sách, của quy định phải tiếp cận và đối tượng điều chỉnh là nữ trí thức (không phải là phụ nữ hay đội ngũ trí thức nói chung).

Thứ hai, Xét trên tổng thể, hệ thống chính sách hiện nay về cơ bản không đặt ra rào cản pháp lý đối với quá trình sáng tạo và phát triển của nữ trí thức. Tuy nhiên, vấn đề then chốt lại nằm ở khâu tổ chức thực thi chính sách. Việc triển khai thực hiện còn thiếu sự quan tâm đến đặc thù giới, chưa đánh giá đầy đủ những khó khăn, thách thức mà nữ trí thức gặp phải trong quá trình dấn thân vào nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo.

Bên cạnh đó, hệ thống thực thi về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn những hạn chế, chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ để khuyến khích đông đảo nữ trí thức mạnh dạn sáng tạo và bảo vệ thành quả nghiên cứu của mình. Một điểm đáng lưu ý là hành lang pháp lý nhằm bảo đảm môi trường dân chủ, tự do học thuật tại Việt Nam tuy đã được chú trọng nhưng vẫn còn thiếu tính đồng bộ và chưa phát huy hết hiệu quả trong thực tiễn. Không ít nơi, hoạt động nghiên cứu của nữ trí thức còn chịu sự chi phối bởi tư duy hành chính hóa, dẫn tới gia tăng áp lực hành chính, làm phân tán nguồn lực sáng tạo và giảm hiệu suất nghiên cứu. Điều này cho thấy khoảng cách giữa quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện vẫn còn khá lớn. Một ví dụ điển hình là Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, dù đã có những quy định tiến bộ về chính sách ưu đãi cho nhà khoa học, nhưng việc vận dụng vào thực tế đối với nữ trí thức vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp, chưa có nhà khoa học nữ nào được hưởng những ưu đãi đặc thù của Nhà nước theo tinh thần của Luật Khoa học và công nghệ không phải vì họ chưa đạt được yêu cầu trong các quy định này mà vì chưa có đầy đủ công cụ hướng dẫn và những hỗ trợ cụ thể đối với các nhà khoa học nữ. Đội ngũ nữ trí thức nghiên cứu khoa học và công nghệ vẫn tiếp tục là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong hệ thống cán bộ, viên chức. Công việc của nhà nghiên cứu không phải “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” là đã có được kết quả/sản phẩm của những nghiên cứu, sáng tạo. Đồng thời, mức đãi ngộ theo quy định còn khá khiêm tốn, chưa đủ hấp dẫn các nhà khoa học nữ tài năng dấn thân tổ chức triển khai thực hiện. Trong khi đó, nếu hoạt động ở các lĩnh vực khác, họ có thu nhập tốt hơn, ổn định hơn và đặc biệt không chịu áp lực lớn của việc phải có sản phẩm/kết quả cam kết với Nhà nước. Việc chưa quy định rõ quyền lợi được hưởng sản phẩm, được thương mại hóa (ngoài quyền tác giả), quyền và lợi ích về vật chất (kinh tế) cũng là lý do làm cho chính sách này chưa thực sự đi vào cuộc sống, thu hút và tạo động lực tham gia nghiên cứu, sáng tạo của các nữ trí thức.

Bên cạnh đó, nhiều quy định pháp luật hiện hành ở Việt Nam vẫn chưa thực sự hoàn thành “sứ mệnh” làm nền tảng pháp lý và động lực thúc đẩy nữ trí thức dấn thân vào hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Đặc biệt, các quy định liên quan đến tuyển dụng, sử dụng, bố trí công tác, chế độ nghỉ hưu, kéo dài thời gian làm việc, chính sách vinh danh và khen thưởng đối với nữ trí thức còn bộc lộ nhiều khoảng trống và bất cập. Hiện nay, chưa có một cơ chế hay chính sách đặc thù nào thực sự được thiết kế riêng biệt nhằm đào tạo, thu hút, tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ đối với lực lượng nữ trí thức. Những quy định chung hiện hành mới chỉ dừng lại ở mức độ tiếp cận phổ quát đối với đội ngũ trí thức nói chung, mà chưa tính đến những yêu cầu riêng biệt xuất phát từ vai trò giới, từ những khó khăn đặc thù của nữ trí thức trong quá trình vừa đảm nhận thiên chức xã hội vừa tham gia lao động sáng tạo trí tuệ. Đồng thời, cũng chưa hình thành được một cơ chế đầy đủ nhằm giúp nữ trí thức chuyên tâm nghiên cứu, phát triển lâu dài trong nghề nghiệp, được ghi nhận và tôn vinh một cách xứng đáng dựa trên thành tựu chuyên môn. Việc thiếu các thiết chế xã hội hỗ trợ, cũng như thiếu các chính sách thúc đẩy công bằng trong thăng tiến nghề nghiệp, đã phần nào hạn chế tiềm năng sáng tạo, làm cho những đóng góp của đội ngũ nữ trí thức chưa được phát huy đầy đủ như kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và xã hội. Thực tiễn này đặt ra yêu cầu nhanh chóng điều chỉnh quy định tăng tuổi đối với nữ giới khi tuyển dụng, cử đi đào tạo, bồi dưỡng chính là không phân biệt đối xử giữa nam trí thức và nữ trí thức, tạo cơ hội cho nữ trí thức đóng góp trí tuệ vào sự phát triển đất nước Đồng thời, để khuyến khích và phát huy tối đa tiềm năng của đội ngũ nữ trí thức, cần thiết phải rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến chế độ, chính sách về quy hoạch, nâng lương, nâng bậc, đề bạt, bổ nhiệm. Việc xây dựng cơ chế hợp lý trong các lĩnh vực này không chỉ nhằm mục tiêu động viên, ghi nhận những đóng góp của nữ trí thức, mà còn tạo động lực mạnh mẽ để họ tiếp tục lao động sáng tạo, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh mới.

Thứ ba, Hiện nay, một số chính sách và quy định liên quan đến phát triển đội ngũ nữ trí thức vẫn còn mang tính dàn trải, thiếu trọng tâm, thiếu những giải pháp đột phá cần thiết để thực sự thúc đẩy sự cống hiến của lực lượng này. Các cơ chế đãi ngộ hiện hành chưa đủ mạnh để tạo động lực khuyến khích nữ trí thức phát huy vai trò, vượt qua rào cản, tập trung vào hoạt động nghiên cứu, sáng tạo khoa học. Quy trình quản lý và đánh giá nữ trí thức trên thực tế vẫn được thực hiện theo khuôn mẫu chung, tương tự đối với các nhóm nhân lực khác, chưa phản ánh đúng đặc thù về giới cũng như những yêu cầu phát triển riêng biệt của đội ngũ này. Bên cạnh đó, môi trường làm việc, điều kiện nghiên cứu và các chính sách sử dụng, đãi ngộ - nhất là trong khu vực Nhà nước - vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đủ sức thu hút và giữ chân những nữ trí thức tài năng.

Hệ thống đầu tư và quản lý khoa học - công nghệ hiện tại còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế hành chính, xin - cho, tạo ra những rào cản đáng kể đối với hoạt động sáng tạo tự chủ. Trong khi đó, khung pháp luật và chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm nghiên cứu khoa học, sáng tạo của nữ trí thức chưa thực sự hoàn chỉnh. Tình trạng sao chép, chiếm dụng kết quả nghiên cứu, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn diễn ra, gây thiệt hại cả về vật chất và tinh thần cho giới nghiên cứu nữ. Thực trạng "chảy máu chất xám" ngay trong khu vực công lập đã tồn tại suốt nhiều năm, và hiện nay xu hướng "chảy máu chất xám" ra ngoài lãnh thổ quốc gia ngày càng rõ nét. Điều này đã tác động tiêu cực, làm xói mòn niềm tin, giảm sút nhiệt huyết và đam mê nghiên cứu - sáng tạo của một bộ phận lớn nữ trí thức, ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Để giải quyết những vấn đề nêu trên, phải nhanh chóng đổi mới chính sách đầu tư và quản lý khoa học - công nghệ nhằm tạo không gian “thông thoáng”, tạo điều kiện, cơ chế hữu hiệu bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nữ trí thức trong thực tiễn. Khi đổi mới cần đặc biệt quan tâm và điều chỉnh những vấn đề: (i) Xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho các nữ trí thức tham gia/thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo nguyên tắc lựa chọn một tỷ lệ nữ nhất định trong số những người đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn để được giao nhiệm vụ, xóa bỏ cơ chế hành chính hóa, mạnh dạn giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của nữ trí thức; (ii) Xây dựng chiến lược đào tạo bài bản về kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng nghề nghiệp và khả năng ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống xã hội, đồng thời có chính sách hỗ trợ đối với các sáng tạo, sáng chế, nghiên cứu của nữ trí thức trong chuyển giao và áp dụng vào thực tiễn; (iii) Tạo điều kiện, cơ hội thực chất (về cơ chế, chính sách, vật chất,…) cho nữ trí thức được đào tạo chuyên sâu, đào tạo lại và trao đổi học thuật, kinh nghiệm về các lĩnh vực nghiên cứu, quản lý phụ trách; (iv) Ban hành quy định về việc hỗ trợ thủ tục, tài chính, phương tiện cần thiết để nữ trí thức “pháp lý hóa” quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến kết quả nghiên cứu, sáng tạo của mình; đồng thời rà soát, loại bỏ những thủ tục rườm rà, gây khó khăn cho việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học, các sáng tạo của nữ trí thức cũng như thủ tục quyết toán khi hoàn thành nhiệm vụ; (v) Trong vinh danh, khen thưởng đối với người làm khoa học, cần có cơ cấu giải thưởng dành cho nữ trí thức; bởi lẽ, để đạt được thành tựu trong nghiên cứu, sáng tạo, các nữ trí thức cần nỗ lực, hy sinh nhiều hơn so với nam giới.

Thứ tư, một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ và khả thi phải đảm bảo sự điều chỉnh mang tính toàn diện, gắn với thực tiễn sinh động của các vấn đề, quan hệ nảy sinh. Đối với nữ trí thức, khi điều chỉnh pháp luật không chỉ quan tâm đến trọng dụng, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, ưu đãi mà phải quan tâm đến yếu tố mang tính nữ, yếu tố thuộc về giới và văn hóa truyền thống.

Tại Việt Nam, yếu tố giới vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc chi phối tình trạng sức khỏe của phụ nữ; sức khỏe của họ không chỉ chịu tác động từ đặc điểm sinh học, mà còn bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các điều kiện lao động và môi trường việc làm. “Mình hạc xương mai”, “Chân yếu tay mềm”, “Mỏng manh dễ vỡ”, “Liễu yếu đào tơ”, v.v… là những cụm từ thường được sử dụng để diễn tả “sự yếu” hơn trên phương diện thể lực – sức khỏe của phụ nữ với nam giới. Bên cạnh đó, định kiến gắn với thiên chức, vai trò của người phụ nữ trong gia đình như: “đàn ông là cái giỏ, đàn bà là cái hom”, “con hư tại mẹ”, “tề gia nội trợ”, “Ra ngoài giúp nước, giúp non/ Về nhà tận tụy chồng con một lòng”,… đã tạo ra cho phụ nữ cả một núi công việc trong bổn phận làm vợ, làm mẹ, làm dâu, làm con… Trên đôi vai bé nhỏ ấy còn là “việc nước” với những nhiệm vụ, chức trách, với những trăn trở về các nghiên cứu, sáng tạo… đã và đang bào mòn sức bền của thể lực, suy giảm sức khỏe và tinh thần của biết bao nữ trí thức Việt Nam. Câu nói “Tâm có tĩnh trí mới thông; lực có mạnh trí mới sáng” phản ánh sinh động yêu cầu của việc đảm bảo sức khỏe tinh thần cho nữ trí thức thực hiện những nghiên cứu, sáng tạo.

Những “truân chuyên” trong các nghiên cứu, sáng tạo của nữ trí thức khó có thể đong, đếm được bằng các đại lượng cụ thể. “Đứa con tinh thần” được tạo bởi các nữ trí thức đôi lúc, đôi khi là sự “cân não”, là những giằng co tâm lý tưởng như không có hồi kết giữa nhiệt huyết, đam mê khoa học, sáng tạo với thực tiễn cuộc sống “cơm áo gạo tiền” và những danh phận của phụ nữ nói chung. Hằng ngày, hằng giờ chúng ta vẫn được đón nhận những thành quả từ sự miệt mài của các nữ trí thức trên các lĩnh vực, ở cấp độ lớn – nhỏ khác nhau, nhưng chưa có nghiên cứu nào, chưa có quy định nào thể hiện sự quan tâm trực tiếp đến những điều thực sự hiển nhiên (nhưng bị lãng quên) về sức khỏe, sức khỏe tinh thần của nữ trí thức. Chính sách, pháp luật hiện nay, đang thực sự “vắng bóng” những quy định thể hiện dấu ấn đặc thù trong việc bảo vệ, chăm lo sức khỏe và sức khỏe tinh thần cho đội ngũ trí thức nói chung, nữ trí thức Việt Nam nói riêng. Để thực hiện định hướng chiến lược trong Văn kiện Đại hội XIII: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới”(16) và phát huy vai trò sáng tạo của nữ trí thức cho sự phát triển ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới, đòi hỏi phải nhanh chóng nghiên cứu, rà soát mang tính hệ thống từ đó ban hành mới chính sách, pháp luật thể hiện tính đặc thù và điều chỉnh toàn diện những vấn đề liên quan đến bảo vệ, chăm lo sức khỏe, sức khỏe tinh thần cho nữ trí thức. Những quy định này phải bảo đảm tính đặc thù trong việc điều chỉnh các mối quan hệ về thể lực, sức khỏe tinh thần của nữ trí thức trên cả hai phương diện: Phụ nữ và trí thức.

KẾT LUẬN

Kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc Việt Nam không chỉ mở ra những cơ hội to lớn để nữ trí thức phát huy tiềm năng, sức sáng tạo, mà còn trao gửi cho họ sứ mệnh lịch sử trong việc góp phần định hình một đất nước thịnh vượng, văn minh và hạnh phúc. Với bản lĩnh khoa học, tinh thần đổi mới sáng tạo và ý chí vượt qua mọi rào cản, nữ trí thức Việt Nam đang ngày càng khẳng định vai trò, vị thế trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Tạo dựng môi trường và điều kiện thuận lợi để nữ trí thức phát huy tối đa năng lực trí tuệ, nhiệt huyết sáng tạo là trách nhiệm chung của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội. Trong bối cảnh mới, việc thúc đẩy quá trình hoạch định chính sách và ra quyết định nhằm tăng cường sự tham gia chủ động, đóng góp hiệu quả của nữ trí thức vào sự nghiệp phát triển đất nước cần được đặt ở vị trí ưu tiên, đi kèm với những giải pháp đồng bộ, thiết thực và khả thi.

Vũ Thị Thu Quyên

Phát huy vai trò của nữ trí thức Hải Phòng trong phát triển thành phố

Phát huy vai trò của nữ trí thức Hải Phòng trong phát triển thành phố

Đó là nội dung cuộc hội thảo khoa học quốc gia do Hội Nữ trí thức Hải Phòng, Trường Đại học Hải Phòng đồng tổ chức sáng ngày 23.5.2025 tại Trường Đại Học Hải Phòng.