Nâng cao khả năng tiếp cận việc làm của lao động nữ trong bối cảnh chuyển đổi số

Chuyển đổi số tạo cơ hội và thách thức cho lao động nữ Việt Nam. Bài viết phân tích thực trạng việc làm, nhận diện rào cản, đồng thời đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp cận việc làm cho phụ nữ.
Ảnh minh họa: ITN
Ảnh minh họa: ITN

Chuyển đổi số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra những thay đổi sâu sắc trong cơ cấu việc làm toàn cầu. Bên cạnh những cơ hội phát triển mới, lực lượng lao động nữ cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Bài viết phân tích thực trạng việc làm của lao động nữ ở nước ta hiện nay, nhận diện các cơ hội và rào cản do chuyển đổi số mang lại, đồng thời đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp cận việc làm của lao động nữ.

Quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới cùng với các tiến bộ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm thay đổi cơ cấu lao động và thị trường lao động theo hướng hệ thống tự động hóa sẽ thay thế dần cho lao động thủ công. Cùng với sự phát triển của công nghệ đã kéo theo sự thay đổi của lao động, việc làm và tạo ra sự dịch chuyển nguồn lực lao động trong xã hội. Rất nhiều công việc sẽ biến mất nhưng sẽ có rất nhiều công việc mới được tạo ra. “Dự kiến, hơn 65% trẻ em bước vào trường tiểu học hiện nay sẽ làm những công việc hoàn toàn mới mà hiện tại chưa tồn tại khi các em bước vào nơi làm việc sau 15 năm nữa” (https://www.nicva.org). Vậy cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động ra sao đến việc làm của lao động nữ, những cơ hội hay thách thức nào đang chờ đón họ trong tương lai? Bài viết phân tích thực trạng việc làm của lao động nữ ở nước ta hiện nay, nhận diện các cơ hội và rào cản do chuyển đổi số mang lại, đồng thời đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp cận việc làm của lao động nữ.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Thực trạng việc làm của lao động nữ hiện nay

Theo số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục Thống kê năm 2023, nước ta có khoảng hơn 2/3 (chiếm 68,9%) dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động, tỷ trọng lao động nữ chiếm 63,1% thấp hơn lao động nam (75,1%). Trong đó, có 51,3 triệu người có việc làm, tăng 682,3 nghìn người (tăng 1,35%) so với năm 2022, tăng chủ yếu ở số lao động nam giới (tăng 350,2 nghìn người, tương ứng tăng 1,3% so với năm trước); tương ứng có gần 1,1 triệu lao động thất nghiệp, giảm 11,2 nghìn người so với năm trước. Trong đó, 46,1% lao động thất nghiệp cư trú ở khu vực thành thị (tương đương 501,8 nghìn người). Lao động thất nghiệp nam chiếm số đông hơn nữ (55,1% so với 44,9%). Nhóm tuổi 20-24 chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số người thất nghiệp ở cả khu vực thành thị và nông thôn (tương ứng là 30,3% và 24,9%).

Xét về cơ cấu nghề nghiệp: nữ giới tập trung chủ yếu trong các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp truyền thống, dệt may, da giày, điện tử trong các khu công nghiệp hay các dịch vụ phi chính thức như bán hàng rong, trông trẻ...

Nâng cao khả năng tiếp cận việc làm của lao động nữ trong bối cảnh chuyển đổi số

Số liệu trên cho thấy, nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới trong 5/10 nhóm nghề, gồm có: Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng; CMKT bậc cao; CMKT bậc trung; Nhân viên; Lao động giản đơn. Đặc biệt ở nhóm nghề Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng (61,1%). Tỷ trọng nữ giới ở nhóm “Nhà lãnh đạo” chỉ chiếm 27,3%. Mặc dù đã có sự cải thiện so với năm 2022 (27,3% so với 26,3%), tuy nhiên khoảng cách này vẫn còn khá rộng, phụ nữ cần được trao quyền, tạo điều kiện nhiều hơn nữa để đạt tới sự bình đẳng giới trong xã hội.

Ở góc nhìn từ vị thế việc làm, có đến 66,3% nữ giới làm lao động gia đình, 44,1% thuộc nhóm lao động làm công hưởng lương (thấp hơn nam giới 11,7 %). Mặc dù khoảng cách giữa nam và nữ trong tỷ trọng lao động làm công hưởng lương ngày càng được rút ngắn (khoảng cách này giảm từ 14,2 điểm phần trăm năm 2019 xuống 11,8 điểm phần trăm vào năm 2023) nhưng rõ ràng vẫn tồn tại sự chênh lệch đáng kể giữa lao động nam và nữ trong thị trường lao động.

Nâng cao khả năng tiếp cận việc làm của lao động nữ trong bối cảnh chuyển đổi số

Về thu nhập bình quân: Trong vòng 3 năm trở lại đây, thu nhập bình quân tháng của người lao động tiếp tục được cải thiện, từ 6,7 triệu/tháng năm 2022 nâng lên 7,1 triệu đồng/tháng năm 2023 và 7,7 triệu đồng/tháng năm 2024. Tuy nhiên, thu nhập giữa lao động nam và lao động nữ vẫn tồn tại sự chênh lệch nhất định. Theo số liệu thống kê năm 2023, thu nhập bình quân tháng của lao động nam cao gấp 1,36 lần lao động nữ (8,1 triệu đồng so với 6,0 triệu đồng). Sự chênh lệch về mức thu nhập của lao động nam và lao động nữ xuất phát từ nhiều yếu tố, như: Trình độ học vấn, trình độ đào tạo, bồi dưỡng nghề (tính đến năm 2023, tỷ lệ lao động nữ đã qua đào tạo chỉ chiếm 23,7%, thấp hơn lao động nam 6,4 điểm phần trăm); đảm nhiệm “gánh nặng kép - công việc và trách nhiệm gia đình”, định kiến giới đối với lao động nữ...

Cơ hội và thách thức đối với lao động nữ hiện nay

Công nghệ và chuyển đổi số mang đến nhiều cơ hội việc làm mới.

Chuyển đổi số đang mở ra nhiều cơ hội mới cho lao động nữ, đặc biệt trong lĩnh vực khởi nghiệp, làm việc từ xa và các ngành dịch vụ dựa trên công nghệ, đồng thời đặt ra thách thức về khả năng thích nghi và tiếp cận công nghệ.

Ứng dụng CNTT và số hóa còn là cơ hội cho việc ra đời và phát triển các mô hình kinh doanh mới, thị trường mới và cơ hội việc làm. Phụ nữ không còn bị giới hạn trong những công việc nội trợ hay nông nghiệp. Họ có thể tham gia vào những công việc sáng tạo, từ xa, hay tự kinh doanh trên nền tảng trực tuyến. Công nghệ đang mang lại cho họ cơ hội làm việc tại nhà. Đây thực sự là bước tiến vượt bậc, giải quyết bài toán cân bằng giữa công việc, gia đình và sức khỏe. Nếu trước đây, hàng hóa chỉ có thể mang ra chợ bán trực tiếp với số lượng hạn chế, chủ yếu cho người dân địa phương, thì giờ đây, nhờ chuyển đổi số, họ có thể tiếp cận thị trường một cách nhanh chóng trên quy mô lớn, có thể bán hàng trên phạm vi toàn thế giới mà không giới hạn số lượng khách hàng nhờ vào thương mại điện tử. Bán hàng trực tuyến mang lại nguồn thu nhập tốt cho phụ nữ và giúp địa phương giải quyết được bài toán tiếp cận thị trường.

Biết nắm bắt thời cơ và thích ứng nhanh chóng với những thay đổi của công nghệ đã giúp người phụ nữ khẳng định được bản lĩnh, sớm tự chủ kinh tế và tự làm chủ cuộc đời mình. Bắt đầu từ năm 2018, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức cuộc thi “Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo”. Đây là một hoạt động thường niên nằm trong khuôn khổ Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017–2025” của Chính phủ. Cuộc thi nhằm khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ trên toàn quốc phát triển các ý tưởng, dự án khởi nghiệp sáng tạo, góp phần nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới.

Theo nghiên cứu của Moeini Gharagozloo và cộng sự (2023), mức độ sẵn sàng kỹ thuật số của một nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thu hẹp khoảng cách giới trong hoạt động khởi nghiệp theo định hướng cơ hội, cho thấy các nền kinh tế có khả năng khai thác cơ hội số sẽ tăng cường đáng kể sự tham gia của nữ giới vào các hoạt động kinh doanh đổi mới (Moeini Gharagozloo et al., 2023). Tương tự, Yadav (2022) nhấn mạnh rằng chuyển đổi số tạo điều kiện để phụ nữ tiếp cận nhiều hơn với giáo dục, dịch vụ tài chính, chăm sóc sức khỏe và luật pháp, từ đó nâng cao quyền năng và khả năng tham gia thị trường lao động (Yadav, 2022).

Báo cáo của VWEC (Vietnam Women Entrepreneurs Council) năm 2021 cho thấy 99% doanh nhân nữ muốn thực hiện chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh để đổi mới và bắt kịp xu hướng trong thời đại số. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa đến 20% đang ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực mua sắm và quản lý hàng tồn kho, 30% doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ đã triển khai phần mềm quản lý thanh toán, nhân sự và tài chính .

Chuyển đổi số không chỉ đang mở ra nhiều cơ hội mới cho lao động nữ mà còn mở ra nhiều cơ hội học tập, giúp lao động nữ được tăng cường các kiến thức, kỹ năng nâng cao khả năng thích nghi với quá trình chuyển đổi số. Nếu trước đây, cơ hội tiếp cận tri thức của phụ nữ chỉ giới hạn trong phạm vi sinh sống với nguồn tri thức hạn chế từ trường học, từ sách vở. Thì giờ đây, chỉ cần một thiết bị thông minh có kết nối Internet, ở bất cứ đâu, bất cứ thời gian nào, phụ nữ đều có thể tham gia các lớp học từ khắp nơi trên thế giới thông qua các khóa học trực tuyến mở và tiếp cận kho kiến thức vô tận từ Internet. Ở một thế giới luôn biến động, chỉ có tri thức mới là điểm tựa vững chắc giúp phụ nữ tăng sức đề kháng, nâng cấp con người bên trong để sẵn sàng trước những cuộc khủng hoảng khó lường. Công nghệ chính là công cụ quan trọng giúp rút ngắn khoảng cách giữa phụ nữ với nguồn tri thức vô tận. Thậm chí, trên thế giới, với một số phụ nữ, công nghệ và các lớp học trên Internet là niềm hy vọng duy nhất để tiếp cận tri thức.

 Những khó khăn, thách thức

Thứ nhất, đó là nguy cơ mất việc làm do tự động hóa. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra, sự chuyển dịch nhanh chóng sang nền kinh tế số cũng đặt ra không ít thách thức nghiêm trọng đối với lực lượng lao động nữ, đặc biệt là nguy cơ bị thay thế bởi công nghệ tự động hóa nếu không được đào tạo lại hoặc nâng cấp kỹ năng. Theo Yadav (2022), mặc dù chuyển đổi số góp phần mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục, y tế và dịch vụ tài chính cho phụ nữ, nhưng nếu không có chiến lược đào tạo kỹ năng số phù hợp, họ dễ bị gạt ra khỏi thị trường lao động (Yadav, 2022). Ngoài ra, nghiên cứu của Piciocchi et al. (2019) cảnh báo rằng các công việc nữ giới thường đảm nhận như hành chính, chăm sóc khách hàng hoặc sản xuất đơn giản có khả năng bị số hóa cao, tạo ra tình trạng mất việc diện rộng nếu không có chính sách tái đào tạo và dịch chuyển nghề nghiệp phù hợp.

Một nghiên cứu dự đoán trong vòng 15-20 năm tới tại Mỹ, tự động hóa có thể gây rủi ro cho 47% số việc làm (Frey, C.B. and M.A. Osborne, 2015) . Còn đối với Việt Nam sẽ có tới 70% số việc làm hiện tại sẽ gặp rủi ro cao, 18% có rủi ro trung bình và 12% có rủi ro thấp (Theo ILO/ADB, 2015). Rủi ro được hiểu là những công việc có thể bị thay thế bằng các hệ thống, máy móc tự động hóa. Rủi ro cao là có xác suất bị thay thế trên 70%; rủi ro trung bình là có xác suất bị thay thế từ 30-70% và rủi ro thấp là có xác suất bị thay thế dưới 30%. Như vậy, lao động bị ảnh hưởng nhiều nhất là trong những ngành nghề liên quan đến lao động giản đơn, thâm dụng nhiều lao động như nông nghiệp, dệt may, lắp ráp, thủ công.v.v... đây đang là những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động của nước ta hiện nay (khoảng 68% lực lượng lao động) và cũng sẽ chiếm tỷ lệ thất nghiệp lớn trong tổng số lao động thất nghiệp của thị trường lao động.

Các nghiên cứu cũng chỉ ra những “công việc có đặc thù máy móc, lặp đi lặp lại, đòi hỏi lao động chân tay chính xác”, thậm chí ngay cả một số ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn của người lao động tương đối cao nhưng lại có tính chất lặp lại như luật sư, phân tích tài chính, bác sĩ, phóng viên, kế toán, bảo hiểm hay thủ thư sẽ được tự động hóa một phần hoặc toàn bộ (Klaus Schwab 2018:21). Một số ngành nghề dễ có khả năng tự động hóa, nhất là tiếp thị qua điện thoại, nhân viên khai thuế (99% công việc trong nhóm nghề này bị thay thế bởi tự động hóa), tương tự 98% công việc trong nhóm nghề như giám định bảo hiểm; giám định hư hại ô tô; trọng tài, các quan chức thể thao; thư ký pháp lý bị thay thế bởi quá trình tự động hóa; 97% công việc trong nhóm nghề như: tiếp viên, nhân viên lễ tân nhà hàng, quán cà phê, môi giới bất động sản và 96% công việc trong nhóm nghề: Thư ký và trợ lý hành chính, chuyển phát thư tín sẽ bị thay thế bởi quá trình tự động hóa (Klaus Schwab 2018:72). Cũng theo Statista (2023), đến năm 2030 tại các quốc gia đang phát triển của khu vực Châu Á sẽ có khoảng 25,5% việc làm trong ngành công nghiệp và xây dựng; 25% việc làm trong lĩnh vực vận chuyển và logictics; 19% việc làm trong lĩnh vực tài chính, dịch vụ; 18,5% việc làm trong lĩnh vực chăm sóc khách hàng, dịch vụ du lịch, thực phẩm sẽ bị thay thế bởi quá trình tự động hóa. Điều này là một thách thức không nhỏ đối với phụ nữ bởi lẽ lao động nữ tập trung đông hơn (61.1% lao động nữ thuộc nhóm nghề dịch vụ cá nhân bảo vệ và bán hàng) [12] ở những việc làm có nguy cơ cao bị thay thế bởi quá trình tự động hóa do sự phát triển của khoa học công nghệ.

Thứ hai, hạn chế về kỹ năng và đào tạo nghề. Lao động nữ đang đối mặt với nhiều rào cản trong việc nâng cao kỹ năng và tiếp cận đào tạo nghề, chủ yếu do yếu tố cấu trúc xã hội, giới tính và các bất cập về chính sách hỗ trợ. Một nghiên cứu cho thấy dù phần lớn phụ nữ tham gia đào tạo nghề đánh giá cao tác động tích cực của chương trình đối với đời sống gia đình và bình đẳng giới, họ vẫn gặp nhiều khó khăn như thiếu hỗ trợ tài chính để khởi nghiệp, hạn chế trong tiếp cận thông tin và thời gian tham gia đào tạo do gánh nặng gia đình (Singh, 2022). Ngoài ra, nghiên cứu tại Tây Ban Nha nhấn mạnh rằng phụ nữ trưởng thành có trình độ thấp cảm thấy bị cản trở bởi những rào cản cá nhân, giáo dục, nghề nghiệp và văn hóa xã hội – tất cả đều bị chi phối bởi định kiến giới. Những yếu tố này cản trở họ hoàn thành mục tiêu nghề nghiệp và tiếp cận thị trường lao động hiệu quả (Ortega, 2014). Tương tự, vấn đề đào tạo nghề vẫn bị ảnh hưởng bởi sự phân hóa giới trong tuyển sinh, thiếu thông tin cho phụ nữ trường thành, phương pháp giảng dạy khuôn mẫu và sự thiếu vắng phụ nữ trong vị trí lãnh đạo giáo dục nghề nghiệp (Roby, 1975). Một phân tích chính sách gần đây cũng chỉ ra rằng việc thiếu đầu tư chiến lược vào đào tạo kỹ năng và sự thờ ơ trong thiết kế chính sách đối với những khó khăn đặc thù của phụ nữ tiếp tục làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng nghề nghiệp (Milner, 2024). Những phát hiện này cho thấy cần thiết có sự phối hợp giữa đào tạo kỹ năng, hỗ trợ tài chính, truyền thông phi định kiến và chính sách giáo dục linh hoạt để khắc phục các rào cản mà lao động nữ đang phải đối mặt. Đồng thời, nghiên cứu cũng cảnh báo về nguy cơ bị loại trừ nếu phụ nữ thiếu kỹ năng số hoặc không được tiếp cận công bằng với hạ tầng công nghệ. Ngoài ra, trong bối cảnh công nghệ tự động hóa phát triển nhanh chóng, những lao động nữ làm việc trong các ngành dễ bị thay thế bởi máy móc cũng đối mặt với nguy cơ mất việc làm nếu không được đào tạo lại phù hợp (Piciocchi et al., 2019).

Khoa học công nghệ phát triển yêu cầu số lượng lao động ít hơn, đồng thời chất lượng lao động cao hơn - thể hiện trước hết ở năng lực và trình độ của người lao động (ở mọi lĩnh vực nông - lâm - thủy sản và những ngành nghề chủ yếu lao động nữ đang làm hiện nay, như: giầy da, may mặc, lắp ráp điện tử…). Tuy nhiên, thực tế trình độ chuyên môn, kỹ thuật của lao động nữ còn thấp, số lượng lao động nữ qua đào tạo còn hạn chế, chưa đáp ứng được xu thế số hóa và nhu cầu thị trường. Đây là một vấn đề xã hội rất đáng được quan tâm và cần có chiến lược để cải thiện, nhằm giúp lao động nữ bắt kịp với xu hướng thời đại. Tỷ lệ nữ tiếp cận với công nghệ và kỹ thuật số cũng thấp hơn đáng kể so với nam giới.

Hơn nữa, đào tạo nghề cho lao động nữ còn nhiều hạn chế, tập trung đào tạo các ngành nghề truyền thống, lao động phổ thông, đòi hỏi ít kỹ năng, chưa ứng dụng công nghệ cao và thiếu các kỹ năng mềm liên quan tới tiếp cận thị trường, xúc tiến thương mại. Mặc dù nhu cầu lao động trong các ngành nghề mới ngày càng tăng cao nhưng lao động nữ khó tiếp cận. Điều này ảnh hưởng đến khả năng phát triển nghề nghiệp của lao động nữ. Thứ ba, tư tưởng truyền thống về vai trò của phụ nữ vẫn là rào cản lớn trong việc tiếp cận việc làm chất lượng và các vị trí lãnh đạo. Quan điểm truyền thống cho rằng, phụ nữ nên tập trung vào vai trò làm mẹ, nội trợ và chăm sóc gia đình, thay vì tham gia vào thị trường lao động. Điều này dẫn đến việc nhà tuyển dụng có xu hướng ưu tiên tuyển dụng lao động nam, đặc biệt là đối với các vị trí quan trọng, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Để khắc phục tình trạng này, cần có sự chung tay của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân để thay đổi định kiến về vai trò của phụ nữ.

Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận việc làm cho lao động nữ hiện nay

Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng số

Phụ nữ cần chủ động trang bị kiến thức, kỹ năng, tích cực học hỏi, nỗ lực phấn đấu, chấp nhận sự thay đổi và không ngừng nâng cao kỹ năng công nghệ. Thông qua hệ thống các trường đào tạo nghề, thông qua sự tư vấn, định hướng nghề nghiệp của các trung tâm dịch vụ việc làm, tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về kỹ năng số, công nghệ thông tin, và các kỹ năng mềm cần thiết cho thị trường lao động hiện đại, chú trọng đến các ngành nghề gắn với công nghệ số, kỹ thuật cao như: CNTT, thương mại điện tử, logistics, dịch vụ kỹ thuật… Mở rộng đào tạo kỹ năng mềm như: giao tiếp, tư duy phản biện, kỹ năng làm việc nhóm, quản lý thời gian – giúp lao động nữ thích ứng linh hoạt với yêu cầu mới của thị trường. Đồng thời, phổ cập kỹ năng số cơ bản, đặc biệt ở vùng nông thôn, miền núi như sử dụng máy tính, điện thoại thông minh, mạng xã hội, ứng dụng thương mại điện tử… Khuyến khích phụ nữ học trực tuyến, tham gia các MOOC (Massive Open Online Courses), lớp học ảo… để học tập linh hoạt mà không bị ràng buộc bởi không gian và thời gian.

Thay đổi tư duy và định kiến

Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới: Tích cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho doanh nghiệp, người lao động, đặc biệt là nam giới, nhằm xóa bỏ định kiến giới, tạo môi trường làm việc thân thiện, bình đẳng cho lao động nữ, xóa bỏ định kiến giới trong tuyển dụng và thăng tiến.

Đồng thời, tôn vinh những lãnh đạo nữ trong nền kinh tế số, những mô hình doanh nghiệp thành công trong sử dụng công cụ số. Bên cạnh đó, lồng ghép giáo dục giới tính, bình đẳng giới trong chương trình phổ thông và đại học để hình thành tư duy bình đẳng ngay từ khi còn trẻ.

Tạo chính sách hỗ trợ lao động nữ

Các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nữ phát triển nghề nghiệp. Đồng thời vận động chính sách và tham gia lồng ghép giới, tăng cường tính hiệu quả của Luật Bình đẳng giới, Luật Việc làm, Luật Lao động. Hơn nữa, tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế được tham gia đào tạo nghề, đa dạng hóa hoạt động dạy nghề theo hướng đào tạo theo yêu cầu của thị trường Lao động, tạo mối liên kết giữa hoạt động đào tạo nghề với các doanh nghiệp, đào tạo theo địa chỉ.

Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp và tự tạo việc làm, khuyến khích khởi nghiệp số, thương mại điện tử, sản xuất tại nhà thông qua các chương trình vốn vay ưu đãi, hướng dẫn pháp lý, tư vấn kinh doanh. Tổ chức các cuộc thi khởi nghiệp dành riêng cho nữ giới, tạo sân chơi và kết nối ý tưởng với nhà đầu tư, doanh nghiệp. Xây dựng mô hình phụ nữ làm chủ kinh tế tại cộng đồng, hỗ trợ họ tiếp cận thị trường lớn hơn thông qua sàn thương mại điện tử và mạng xã hội.

Như vậy, việc giải quyết tốt các thách thức và vấn đề đặt ra đối với việc làm của lao động nữ sẽ góp phần thúc đẩy bình đẳng giới, nâng cao vai trò, vị thế của lao động nữ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, chuyển đổi số và đổi mới công nghệ đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nói chung và phụ nữ nói riêng, mở ra cho họ nhiều cơ hội tiếp cận nguồn thông tin, tri thức của nhân loại, từ đó nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và cơ hội nghề nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích cũng nảy sinh nhiều thách thức: nguy cơ mất việc; rào cản trong việc nâng cao kỹ năng và tiếp cận đào tạo nghề, chủ yếu do yếu tố cấu trúc xã hội, giới tính và các bất cập về chính sách hỗ trợ; đảm nhiệm vai trò kép khiến cho phụ nữ khó tiếp cận việc làm chất lượng và các vị trí lãnh đạo. Để tháo gỡ rào cản, mở rộng cơ hội tiếp cận việc làm cho lao động nữ trong quá trình chuyển đổi số cần sự phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội nhằm đảm bảo công bằng và phát triển bền vững

Phạm Hương Giang

Các trường hợp nghỉ làm có lương dành riêng cho lao động nữ

Các trường hợp nghỉ làm có lương dành riêng cho lao động nữ

Pháp luật lao động Việt Nam đã đưa ra những quy định chi tiết để bảo vệ quyền lợi của người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng.