Việc ứng viên GS, PGS khai gian" bài báo: "Vấn đề nằm ở đạo đức công bố khoa học"

"Nếu hội đồng xét duyệt có kinh nghiệm tốt về công bố khoa học, việc gian lận không thể xảy ra", Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nói.

Liên quan đến vấn đề ứng viên giáo sư, phó giáo sư bị tố cáo "khai gian" bài báo, trả lời phỏng vấn VnExpress, GS Nguyễn Văn Tuấn (Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Australia) cho rằng vấn đề không phải là gian lân mà vấn đề là đạo đức công bố khoa học và cách thẩm định của Hội đồng giáo sư ngành Y. 

"Quy ước về đạo đức công bố (publication ethics) không khuyến khích nhà khoa học công bố trên những trạm thông tin mà cộng đồng khoa học không chấp nhận. Nếu hội đồng xét duyệt có kinh nghiệm tốt về công bố khoa học, việc gian lận không thể xảy ra", ông Tuấn nói.

Ông Tuấn cũng nhấn mạnh nếu chỉ xem xét các ứng viên này mà không xem xét những năm trước thì họ sẽ cho là không công bằng. 

GS Nguyễn Văn Tuấn
GS Nguyễn Văn Tuấn

Về việc Tạp chí Open Access kém chất lượng, ông Tuấn nhấn mạnh cần phải phân biệt giữa ập san và tạp chí. Tạp chí tiếng Anh gọi là magazine, thường đăng những bài báo phổ thông (như Scientific American, The Scientist) dễ hiểu, dành cho đại chúng và không cần tài liệu tham khảo. Còn tập san là Journal, thuật ngữ dùng để chỉ các chuyên san khoa học, đăng những bài mang tính hàn lâm, có bình duyệt, dành cho giới khoa học và phải có tài liệu tham khảo. 

Một số tập san có ảnh hưởng và uy tín được ông Tuấn liệt kê đó là: New England Journal of Medicine, Lancet, JAMA, BMJ, Annals of Internal Medicine, Journal of Clinical Investigation, Journal of Experimental Medicine, Nature Medicine, eLife, PLoS Medicine. Còn trong chuyên ngành Dược, các tập san thường có tầm ảnh hưởng thấp hơn các tập san Y khoa. Những tập san chuyên ngành Dược học sau đây được xem là hàng 'top': Nature Reviews Drug Discovery, Annual Review of Pharmacology, Annual Review Of Pharmacology And Toxicology, Pharmacological Reviews, Trends In Pharmacological Sciences, Pharmacology & Therapeutics, Clinical Pharmacology & Therapeutics, Clinical Pharmacokinetics.

Muốn đăng bài trên các tập san này cần phải đạt được những yêu cầu như: "Trước hết, tác giả chủ trì gửi một bản tóm tắt và lý giải ngắn cho ban biên tập với ý định công bố kết quả nghiên cứu. Đa số bị từ chối ở bước này.

Thứ hai, nếu ban biên tập đồng ý, tác giả sẽ nộp bản thảo đầy đủ cùng với dữ liệu gốc và các mã máy tính cho tập san. Ban biên tập sẽ chọn phó biên tập phụ trách bản thảo và gửi ra ngoài cho 2-3 chuyên gia bình duyệt.

Thứ ba, sau khi đã nhận được báo cáo bình duyệt của chuyên gia, ban biên tập có thể quyết định từ chối bài báo hay cho tác giả cơ hội trả lời.

Thứ tư, nếu may mắn tác giả được cho cơ hội trả lời, họ sẽ phải trả lời mỗi câu hỏi lớn, nhỏ của chuyên gia. Có khi tác giả phải làm thêm thí nghiệm, phân tích, hay chỉnh sửa theo đề nghị.

Thứ năm, Ban biên tập sẽ xem xét trả lời của tác giả và nếu thấy hợp lý, bản thảo mới sẽ được gửi lại cho các chuyên gia bình duyệt để thẩm định lần hai.

Thứ sáu, báo cáo của các chuyên gia bình duyệt trong giai đoạn này mang tính quyết định. Ban biên tập sẽ họp và xem xét các chuyên gia nêu vấn đề có công bằng cho tác giả hay không, và tác giả trả lời có thỏa đáng hay không. Sau đó, họ sẽ quyết định chấp nhận hay từ chối bài báo".

Để nhận diện các tập san "dỏm", ông Tuấn chia sẻ, tập san chính thống là của các hiệp hội khoa học, hoặc của nhà xuất bản lâu đời và danh tiếng (như Elsevier, Springer-Nature, Sage, John WileyOxford, Cambridge, BMA) nhưng do giới khoa học điều hành. "Tập san dỏm" là những trạm xuất bản "săn mồi", là cơ sở buôn bán thông tin phi chính thống. "Mồi" của trạm thông tin này là các nhà khoa học không am hiểu về nghiên cứu và xuất bản khoa học, những người mà công trình nghiên cứu của họ không thể nào được chấp nhận cho công bố trên tập san chính thống. Các trạm thông tin này không quan tâm đến khoa học, không cần biết các "con mồi" viết gì. Họ chỉ là các cơ sở làm tiền từ "con mồi".

"Dấu hiệu về tập san dỏm hay "săn mồi" thì rất nhiều và cần có kinh nghiệm mới nhận ra, chẳng hạn tên tập san chung chung, hay nhái theo tập san chính thống; không có trong danh mục ISI, Scopus; tổng biên tập không có thành tích khoa học tốt; ban biên tập toàn người không thuộc hiệp hội khoa học nào hoặc chẳng có thành tích nổi bật mà giới khoa học chuyên ngành biết đến; bài báo có chất lượng quá thấp và tiếng Anh sai rất nhiều, nhiều "tổng biên tập" cũng viết sai tiếng Anh. Tuy nhiên, gần đây việc phân biệt tập san dỏm và chính thống ngày càng khó hơn, vì một số tập san nằm giữa biên giới dỏm và chính thống. Có tập san đã được đưa vào danh mục ISI và Scopus, nhưng vì cách làm việc của họ đáng nghi ngờ (như tăng chỉ số ảnh hưởng cao một cách bất thường - do gian lận về trích dẫn) cũng có thể xem là "dỏm". Ngược lại, một số tập san thuộc các nhà xuất bản phi chính thống trước đây nhưng lại có những bài rất tốt và do đó khó có thể xem họ là "dỏm" được", ông Tuấn nhấn mạnh.

Nhận định về việc đăng bài báo quốc tế trong lĩnh vực Y, Dược của Việt Nam thời gian, ông Tuấn cho rằng trong giai đoạn 2001 - 2015, công bố khoa học về Y học cơ bản, Y học lâm sàng, Y tế công cộng (hay nói chung là Y sinh học) chiếm 37% tổng số bài báo khoa học từ Việt Nam. Tuy nhiên, 90% các bài báo về Y sinh học là do hợp tác quốc tế, chỉ khoảng 10% là do các nhà khoa học trong nước chủ trì. Điều này cho thấy nội lực về nghiên cứu Y sinh học Việt Nam vẫn còn đang phát triển. Mà trong giai đoạn đang phát triển thì có rất nhiều vấn đề nảy sinh.

Ông Tuấn nói tiêu chuẩn công bố khoa học trong việc xét duyệt công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam quá lệ thuộc vào con số và quá "máy móc". Ông cho biết: "Tôi nghĩ Việt Nam nên đặt nặng chất lượng nghiên cứu khoa học, không nên đếm bao nhiêu bài báo để công nhận chức danh giáo sư. Sự nghiệp của một nhà khoa học không thể nào tóm tắt thành một con số".

Để vừa nâng chuẩn giáo sư, phó giáo sư, vừa kích thích cộng đồng học thuật nghiên cứu, có công bố quốc tế, ông Tuấn đánh giá có khá nhiều việc phải làm. Cụ thể là phải xác định nguyên lý của đề bạt chức vụ hay xét duyệt công nhận chức danh; phải bỏ đi sự lệ thuộc vào số lượng bài báo khoa học mà nên nhấn mạnh đến chất lượng khoa học; cần xem xét đến sự đóng góp của ứng viên về đào tạo và huấn luyện...

Ông Tuấn nhấn mạnh: "Tôi nghĩ cần có một cơ chế bổ nhiệm khác mà nước ngoài hay sử dụng, đó là giáo sư kiêm nhiệm (adjunct professorship). Giáo sư kiêm nhiệm có thể không chuyên tâm về nghiên cứu khoa học, nhưng đóng góp lớn cho đào tạo bác sĩ chuyên khoa. Họ nên được ghi nhận và công nhận. Giáo sư không chỉ công bố bài báo mà còn thể hiện qua sự công nhận của cộng đồng khoa học, đóng góp cho chuyên ngành và xã hội. Sự công nhận là những giải thưởng có uy tín, những lần được mời viết bài xã luận, được mời giảng trong các hội nghị quốc tế. Đóng góp cho chuyên ngành bao gồm phục vụ cho các hiệp hội khoa học và tập san trong vai trò lãnh đạo, chứ không phải đơn thuần là thành viên ban biên tập. Đóng góp cho xã hội ngày càng được đặt nặng, bởi giáo sư phải bước ra khỏi cái "tháp ngà" để góp tiếng nói về các vấn đề xã hội".

Thanh Mai

Bộ Y tế cử thêm 3 giáo sư đầu ngành vào hỗ trợ Đà Nẵng

Bộ Y tế cử thêm 3 giáo sư đầu ngành vào hỗ trợ Đà Nẵng

3 chuyên gia y tế đầu ngành được cử đến Đà Nẵng để hỗ trợ bác sĩ điều trị, nhằm giảm số ca bệnh nhân COVID-19 tử vong.