Ngay khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế ( IMF ) công bố Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 4 Đông Nam Á, vượt Singapore và Malaysia , Thời báo New York đã có bài bình luận về đất nước hình chữ S. Bài viết này của Ruchir Sharma, Trưởng Chiến lược gia toàn cầu tại Morgan Stanley Investment Management, tác giả của cuốn “10 quy tắc của các quốc gia thành công”.
Trong vòng vài ngày kể từ khi Trung Quốc công bố trường hợp đầu tiên nhiễm COVID-19, Việt Nam đã huy động mọi lực lượng để ngăn chặn sự lây lan của virus. Sử dụng truyền thông đại chúng, bảng áp phích và loa phóng thanh, truyền hình, Chính phủ đã kêu gọi 100 triệu công dân chung tay phòng chống đại dịch toàn cầu.
Việc nhanh chóng cô lập các ổ dịch đã khiến tỷ lệ tử vong của Việt Nam nằm trong nhóm 4 nước thấp nhất trên thế giới, dưới 1 người chết trên 1 triệu người .
Việc kiềm chế đại dịch cho phép Việt Nam nhanh chóng mở cửa trở lại hoạt động kinh doanh, và hiện được dự đoán là nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới trong năm nay.
Trong khi nhiều quốc gia đang phải chịu những đợt suy giảm kinh tế to lớn và phải chạy đến IMF để giải cứu tài chính, thì Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ 3%. Ấn tượng hơn nữa, sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi thặng dư thương mại kỷ lục, bất chấp sự sụp đổ trong nhu cầu thương mại toàn cầu.
Ông Ruchir Sharma gọi đây là “kỳ tích châu Á”. Kỳ tích này đối với Việt Nam đã lâu lắm rồi mới có được. Sau Thế chiến II, “kỳ tích châu Á” đầu tiên là Nhật Bản, sau đó là Đài Loan và Hàn Quốc, gần đây nhất là Trung Quốc. Các nước này đã vươn lên thoát nghèo bằng cách mở cửa cho thương mại, đầu tư và trở thành cường quốc sản xuất xuất khẩu .
Bây giờ, Việt Nam đang đi theo con đường tương tự, nhưng trong một thời đại hoàn toàn mới. Những điều kiện tạo nên những điều kỳ tích ban đầu có thể không còn nữa.
Bùng nổ dân số thời hậu chiến đã kết thúc. Thời đại toàn cầu hóa nhanh chóng, với dòng chảy thương mại và đầu tư ngày càng tăng, cũng đã qua. Tăng trưởng kinh tế đang chậm lại trên toàn thế giới. Trong môi trường này, các siêu cường không còn bỏ qua các chiến thuật mà các nước trước đó đã sử dụng để có được lợi thế.
Trong những năm bùng nổ của họ, những “kỳ tích châu Á” đã tạo ra mức tăng trưởng xuất khẩu hàng năm gần 20%, gần gấp đôi mức trung bình của các quốc gia có thu nhập thấp hoặc trung bình vào thời điểm đó. Việt Nam đã duy trì tốc độ tương tự trong ba thập kỷ qua.
Ngay cả khi thương mại toàn cầu sụt giảm trong năm 2010, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng 16% so với cùng kỳ năm trước. Cho đến nay, đây là tốc độ nhanh nhất trên thế giới, và gấp 3 lần mức trung bình của nhóm các nền kinh tế mới nổi.
Trong khi nhu cầu toàn cầu suy giảm, Việt Nam vẫn xuất siêu 3,5 tỷ USD. Đồ hoạ: Tất Đạt |
Trong khi các quốc gia mới nổi khác chi mạnh tay cho phúc lợi xã hội nhằm xoa dịu cử tri, thì Việt Nam dành nguồn lực cho xuất khẩu, xây dựng đường xá, bến cảng để đưa hàng hóa ra nước ngoài, và xây dựng trường học để đào tạo lao động. Chính phủ đầu tư khoảng 8% GDP mỗi năm cho các dự án xây dựng mới, và hiện được xếp hạng cao hơn về chất lượng cơ sở hạ tầng của mình so với bất kỳ quốc gia nào ở giai đoạn phát triển tương tự.
Việt Nam cũng hướng được dòng vốn nước ngoài đổ về ấn tượng. Trong 5 năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt trung bình hơn 6% GDP tại Việt Nam, tỷ lệ cao nhất so với bất kỳ quốc gia mới nổi nào.
Phần lớn trong số đó dành cho việc xây dựng các nhà máy sản xuất và cơ sở hạ tầng liên quan, và hầu hết hiện nay đến từ các quốc gia châu Á khác, bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Ông Ruchir Sharma gọi đây là những “kỳ tích” cũ đang giúp xây dựng “kỳ tích” mới.
Việt Nam đã trở thành điểm đến ưa thích của các nhà sản xuất xuất khẩu, khiến Trung Quốc phải đối mặt nguy cơ bị thay thế.
Thu nhập bình quân đầu người hàng năm ở Việt Nam đã tăng gấp 5 lần kể từ cuối những năm 1980, lên gần 3.000 USD/người (gần 70 triệu đồng), nhưng chi phí lao động vẫn chỉ bằng một nửa so với Trung Quốc, và lực lượng lao động được giáo dục tốt. Nguồn lao động có tay nghề cao đó đang giúp Việt Nam “lên nấc thang”, có lẽ nhanh hơn bất kỳ đối thủ nào, để sản xuất hàng hóa ngày càng tinh vi.
Công nghệ đã vượt qua quần áo và dệt may, để trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong năm 2015, và chiếm phần lớn thặng dư thương mại kỷ lục trong năm nay.
Trong kỷ nguyên bảo hộ, Việt Nam cũng là quốc gia theo khuynh hướng ủng hộ mậu dịch tự do. Việt Nam là nước ký kết hơn 10 hiệp định thương mại tự do, trong đó có một thỏa thuận mang tính bước ngoặt mới được ký kết với Liên minh Châu Âu: EVFTA.
Lao động Việt Nam có tay nghề tinh vi hơn, thực hiện được các sản phẩm nhiều chất xám. Ảnh: Vingroup |
Liệu Việt Nam có thể tiếp tục thành công của mình, bất chấp những trở ngại tiềm tàng như dân số sắp già, thương mại giảm sút? Ông Ruchir Sharma cho rằng, vẫn có thể.
Trong khi tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động đang chậm lại, phần lớn người Việt Nam vẫn sống ở nông thôn. Do đó, nền kinh tế có thể tiếp tục phát triển bằng cách chuyển dịch lao động từ nông thôn sang các công việc nhà máy ở thành thị.
Trong 5 năm qua, không có quốc gia lớn nào tăng tỷ trọng xuất khẩu toàn cầu nhiều hơn Việt Nam. Và cho đến nay, Chính phủ cũng đã thông qua các chính sách kinh tế cởi mở và quản lý tài chính hợp lý.
Nhưng ông Ruchir Sharma chỉ ra một vấn đề khác có thể xảy ra. Sau nhiều đợt tư nhân hóa, Chính phủ sở hữu ít công ty hơn, nhưng những công ty nhà nước vẫn rất lớn và chiếm gần 1/3 sản lượng kinh tế. Những công ty nhà nước cồng kềnh này, vốn chiếm nhiều khoản nợ trong hệ thống ngân hàng.
Nhưng ông Ruchir Sharma vẫn kết luận: “Hiện tại, Việt Nam giống như một phép màu từ một thời kỳ đã qua, đang xuất khẩu vươn lên thịnh vượng”.