Đằng sau bức tranh tươi sáng về giới trong khoa học
Xã hội phát triển đã mở ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ Việt Nam khẳng định vai trò trong mọi lĩnh vực, trong đó có nghiên cứu khoa học. Thực tế, Việt Nam là một trong số ít quốc gia ở châu Á có tỷ lệ nữ cán bộ nghiên cứu khoa học khá cao, chiếm khoảng 46%, theo số liệu công bố gần đây.
Các lĩnh vực như xã hội học, sinh học, hóa học, nông nghiệp, y tế và sức khỏe cộng đồng – vốn là trọng điểm nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Gia cầm Một sức khỏe (Hub) – đều có sự tham gia mạnh mẽ của nữ giới. Tại Hub, có tới 70% đội ngũ nghiên cứu là nữ, làm việc song hành cùng các đối tác quốc tế để giải quyết các vấn đề sức khỏe liên quan đến chăn nuôi gia cầm và dịch bệnh.
![]() |
PGS.TS Nguyễn Thị Trâm, tác giả của những giống lúa lai "bạc tỉ" |
Tuy nhiên, con số đẹp không đồng nghĩa với thực trạng đã thực sự bình đẳng. Dù phụ nữ chiếm gần nửa số lượng cán bộ nghiên cứu, nhưng chỉ khoảng 20% các đề tài, dự án nghiên cứu có nữ làm chủ nhiệm – một tỷ lệ chênh lệch nói lên nhiều điều.
Tại các cuộc hội thảo, tọa đàm những năm gần đây, nhiều nữ cán bộ nghiên cứu đã chia sẻ thẳng thắn về cảm giác bị “gạt ra rìa” dù là người góp công lớn. Không ít nữ Phó Giáo sư, Tiến sĩ đã trực tiếp xây dựng đề cương, tổ chức nhóm nghiên cứu, thực hiện công việc thực nghiệm ban đầu nhưng đến khi đề tài bắt đầu có triển vọng, người giữ vai trò chủ nhiệm lại là một đồng nghiệp nam, thường có lợi thế về chức vụ hoặc mối quan hệ.
Một nhà khoa học nữ tại viện nghiên cứu lớn chia sẻ:“Tôi là người khởi xướng ý tưởng, viết đề cương, triển khai phần lớn nghiên cứu, nhưng khi hồ sơ nghiệm thu được nộp, tên tôi lại nằm sau. Người đứng đầu nhóm là một lãnh đạo nam, vì ‘phải có chức danh cho dễ duyệt’.”.
Một nữ Phó giáo sư đang công tác tại một bệnh viện thì than thở: “ Nếu không tâm huyết, chắc chắn sẽ nản trí. Họ cứ để cho tôi làm vài cái đặt nền móng và mô hihf, rồi sau đó tái cấu trúc để đẩy tôi ra khỏi vai trò chủ đạo”.
Sự việc lặp đi lặp lại khiến nhiều nhà khoa học nữ không khỏi chán nản. Những đóng góp thầm lặng của họ dường như không đủ để được công nhận là người “xứng đáng cầm trịch”.
Khi công nhận chưa đi đôi với trao quyền
Dù Luật Bình đẳng giới (2006) đã đặt khoa học – công nghệ là một trong tám lĩnh vực ưu tiên, nhưng trong thực tế, tư tưởng trọng nam, khinh nữ vẫn là một rào cản lớn.
Nhiều người vẫn tin rằng phụ nữ “phù hợp với vai trò hỗ trợ”, nên khó có thể lãnh đạo nghiên cứu quy mô lớn. Áp lực kép từ công việc và vai trò gia đình càng khiến nhiều nữ trí thức gặp khó khăn trong việc toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp khoa học.
![]() |
GS.TS Huỳnh Thị Phương Liên - người trọn đời gắn bó với vaccine |
Quan niệm xã hội cũ kỹ như “đàn bà xây tổ ấm” tiếp tục đè nặng lên vai phụ nữ. Trong khi đồng nghiệp nam có thể dành trọn thời gian cho nghiên cứu, hội thảo, công tác, thì phụ nữ thường bị ràng buộc bởi vai trò chăm sóc con cái, nội trợ, và trách nhiệm với gia đình hai bên.
Việc đánh giá đóng góp trong nghiên cứu ở Việt Nam vẫn còn thiên về hình thức. Danh sách tác giả hay vai trò chủ nhiệm đôi khi dựa trên chức danh hành chính, mối quan hệ hay thâm niên thay vì dựa vào đóng góp thực tế. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền được ghi nhận – một yếu tố quan trọng cho sự phát triển sự nghiệp của các nhà khoa học nữ.
Trong hệ thống xét học hàm, học vị, hoặc đề xuất dự án mới, việc thiếu vị trí đứng tên tác giả chính hay chủ nhiệm đề tài có thể khiến nữ giới mất đi cơ hội thăng tiến, dù họ chính là người đã “cày sâu cuốc bẫm” trong suốt hành trình nghiên cứu.
Những điểm sáng: Ghi nhận và truyền cảm hứng
Dù đối mặt với nhiều rào cản, các nhà khoa học nữ Việt Nam vẫn ghi dấu ấn rõ nét bằng các công trình đóng góp thiết thực cho xã hội.
![]() |
PGS. TS. Nguyễn Minh Tân (trái) nhà khoa học nữ nhận giải thưởng Kovalevskaia năm 2024 |
Giải thưởng Kovalevskaia ở Việt Nam đã được trao cho nhiều nữ khoa học gia xuất sắc như GS. TS. Nguyễn Thị Thu Cúc (1987), PGS. TS. Huỳnh Thị Phương Liên (1999), PGS. TS. Nguyễn Thị Trâm (2000), PGS. TS. Lương Chi Mai và TS. Nguyễn Thị Lộc (2010), PGS. TS. Vũ Thị Thu Hà và PGS. TS. Lê Thị Thanh Nhàn (2011), GS. TS. Hoàng Thị Thái Hòa (2023), cùng PGS. TS. Nguyễn Minh Tân và PGS. TS. Đặng Thị Mỹ Dung (2024), ghi nhận những đóng góp lớn lao của họ cho khoa học và xã hội Việt Nam
Các giải thưởng như Kovalevskaia, L’Oreal–UNESCO không chỉ là sự ghi nhận mà còn là động lực truyền cảm hứng cho các thế hệ nhà khoa học nữ trẻ tiếp bước. Thêm vào đó, các quỹ học bổng nghiên cứu dành riêng cho nữ sinh cũng góp phần tạo môi trường học thuật bình đẳng và dân chủ hơn.
![]() |
PGS.TS Đặng Thị Mỹ Dung và các cộng sự trong phòng nghiên cứu |
Để hướng tới một nền khoa học phát triển bền vững và công bằng, không thể chỉ trông chờ vào sự nỗ lực đơn lẻ của từng cá nhân nữ giới. Cần có các giải pháp đồng bộ:
- Minh bạch trong ghi nhận đóng góp khoa học: Cần xây dựng cơ chế đánh giá công bằng dựa trên đóng góp thực tế thay vì địa vị hành chính.
- Chính sách ưu tiên và hỗ trợ phụ nữ trong nghiên cứu: Cần có các chương trình tài trợ riêng, hỗ trợ thời gian linh hoạt cho nhà nghiên cứu nữ, đặc biệt trong giai đoạn mang thai, nuôi con nhỏ.
- Đào tạo và truyền cảm hứng cho thế hệ nữ nghiên cứu kế cận: Xây dựng mạng lưới nữ khoa học gia để tạo không gian hỗ trợ và phát triển chung.
- Đưa vấn đề giới vào các cuộc thảo luận học thuật: Các sáng kiến như của Hub, tổ chức các buổi tọa đàm chuyên sâu về giới trong nghiên cứu, cần được nhân rộng.
Sự phát triển của khoa học Việt Nam không thể chỉ dựa vào thành tựu của một nửa dân số. Việc ghi nhận đúng vai trò và năng lực của các nhà khoa học nữ không chỉ là vấn đề công bằng, mà còn là điều kiện tiên quyết để Việt Nam vươn tới các mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Khi những người đặt nền móng được giữ lại trên chính công trình mà họ tạo nên, nền khoa học ấy mới thực sự bền vững.
Thúc đẩy vai trò nữ khoa học trong Toán học ứng dụng khu vực Đông Nam Á
Hội thảo RWAM-SE 2025 quy tụ các nhà khoa học nữ Toán ứng dụng Đông Nam Á, tạo diễn đàn hợp tác nghiên cứu, khẳng định vai trò phụ nữ trong khoa học và thúc đẩy bình đẳng giới.