Theo thống kê của ngành Y tế, nhu cầu dược liệu trong nước mỗi năm đạt khoảng 80.000 – 100.000 tấn, nhưng gần 70% vẫn phải nhập khẩu. Trong khi đó, Việt Nam sở hữu hơn 5.000 loài cây thuốc, nhiều loài có thể khai thác tự nhiên hoặc trồng để chủ động nguồn nguyên liệu. Dù nguồn tài nguyên phong phú, nước ta vẫn chưa hình thành được nhiều vùng nguyên liệu lớn, ổn định và phát triển bền vững.
![]() |
| PGS.TS Võ Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng), khẳng định nguồn lực khoa học của thành phố đủ khả năng đảm nhiệm vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị dược liệu, từ nghiên cứu nguồn gen, chọn giống, nhân giống đến tư vấn quy trình sản xuất và kiểm soát chất lượng. |
Tại miền Trung, Đà Nẵng là một ví dụ rõ ràng cho thấy tiềm năng nhưng cũng phản ánh thực trạng khó khăn. Thành phố này có hơn một nghìn loài thực vật làm thuốc, trong đó không ít loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam. Khu vực núi Tây Nam, giáp Nam Trà My và Trà Linh, còn sở hữu điều kiện sinh thái tương đồng với vùng nguyên liệu sâm Ngọc Linh, một trong những loài sâm quý nhất thế giới. Điều này mở ra triển vọng mở rộng vùng trồng, di thực giống và từng bước xây dựng chuỗi sản xuất dược liệu chất lượng cao. Tại Diễn đàn khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo nông nghiệp – dược liệu 2025, PGS.TS Võ Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng), khẳng định nguồn lực khoa học của thành phố đủ khả năng đảm nhiệm vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị dược liệu, từ nghiên cứu nguồn gen, chọn giống, nhân giống đến tư vấn quy trình sản xuất và kiểm soát chất lượng.
![]() |
| Một cây sâm có rất nhiều trái chín đỏ tại Trại Sâm Tắk Ngo ở Trà Linh - Ảnh: H.V.M. |
Tuy nhiên, bà Vũ Thị Bích Hậu, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đà Nẵng thì cho rằng, để phát triển các dược liệu chủ lực như sâm Ngọc Linh, thành phố còn phải giải quyết đồng bộ vấn đề chính sách, công nghệ và nguồn nhân lực. “Sâm Ngọc Linh nói là quốc bảo, nhưng cơ chế để trồng dưới tán rừng, nhất là rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, không hề đơn giản. Hạ tầng số, truy xuất nguồn gốc còn thiếu; và cơ bản nhất là nguồn nhân lực. Nếu chỉ dựa vào lực lượng của thành phố thì khó phát triển được chuỗi giá trị nông nghiệp – dược liệu,” bà Hậu nói.
Thực tế, các cơ chế liên quan đến đất rừng, phân cấp quản lý, quy định khai thác và bảo tồn khiến việc phát triển vùng trồng tại địa phương gặp không ít trở ngại. Dù vậy, một số mô hình thử nghiệm vẫn đang được triển khai. Trại Sâm Tắk Ngo ở Trà Linh hiện trồng thử nghiệm hơn 7 ha dược liệu quý, trong khi trên địa bàn thành phố đã xuất hiện hơn 10 doanh nghiệp chế biến sâu, sản xuất trà thảo mộc, cao tinh chất, viên nang, mật ong dược liệu và mỹ phẩm thiên nhiên. Những mô hình này cho thấy Đà Nẵng có dư địa để hình thành ngành công nghiệp dược liệu gắn với thị trường, nhưng vẫn cần thêm cơ chế hỗ trợ để phát triển bền vững.
![]() |
| Hội đồng Tư vấn đánh giá nghiệm thu Dự án "Ứng dụng khoa học công nghệ chiết xuất và sản xuất thực phẩm điều trị đau cơ xương khớp từ cây Ngải mọi ( globba pendula Roxb.), Đương quy Nhật ( Angelica acutiloba (Sieb.et Zucc) Kitagawa.) tại tỉnh Quảng Ninh |
Theo PGS.TS Phạm Thanh Huyền, Giám đốc Trung tâm Tài nguyên Dược liệu (Viện Dược liệu), hiện cả nước chỉ có khoảng 60 – 70 vùng trồng dược liệu đạt chuẩn GACP-WHO. Các vùng này tập trung chủ yếu tại Tây Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ – những nơi có điều kiện khí hậu – thổ nhưỡng phù hợp để phát triển dược liệu sạch. Để đạt chuẩn GACP-WHO, vùng trồng phải tuân thủ hàng loạt tiêu chí nghiêm ngặt, từ lựa chọn giống, đất trồng, kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu bệnh đến thu hái đúng giai đoạn, bảo quản và sơ chế. Cục Quản lý Y, Dược cổ truyền (Bộ Y tế) là đơn vị cấp chứng nhận, còn Viện Dược liệu tham gia đánh giá chuyên môn. Bộ Y tế thường xuyên kiểm tra nhằm đảm bảo vùng trồng duy trì tiêu chuẩn. Tuy nhiên, số vùng trồng đạt chuẩn vẫn còn quá nhỏ so với tiềm năng và nhu cầu sản xuất trong nước.
Theo bà Huyền, muốn nâng cao giá trị thương hiệu “dược liệu Việt Nam” trên thị trường khu vực và quốc tế, cần tập trung nhiều hơn vào chất lượng và nguồn gốc. Việc ưu tiên khai thác, bảo tồn và phát triển các nguồn gen bản địa có hoạt chất cao sẽ tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Cùng với đó, ngành dược liệu cần đẩy mạnh chế biến sâu để sản xuất tinh dầu, cao dược liệu, trà thảo mộc, thực phẩm bảo vệ sức khỏe và thuốc từ dược liệu, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của thị trường thế giới. Truy xuất nguồn gốc và minh bạch chuỗi cung ứng cũng là điều kiện bắt buộc để nâng sức cạnh tranh.
![]() |
| TS Nguyễn Thị Thúy Hường, Phó Trưởng phòng Công nghệ Tế bào thực vật, Viện Sinh học ( Viện Hàn Lâm Khoa học và kỹ thuật Việt Nam) thu mẫu hoa cây gừng gió tại Phú Thọ. |
Thực tế, dược liệu Việt Nam không thiếu loại quý, nhưng khai thác tự nhiên thiếu kiểm soát đang khiến nhiều loài cạn kiệt. TS Nguyễn Thị Thúy Hường, Phó Trưởng phòng Công nghệ Tế bào thực vật, Viện Sinh học ( Viện Hàn Lâm Khoa học và kỹ thuật Việt Nam) chia sẻ: “Việt Nam rất đa dạng và phong phú về thảo dược, hoạt chất cũng rất tốt. Những sản phẩm chúng em nghiên cứu chủ yếu khai thác từ tự nhiên, nên công tác hướng dẫn bà con khai thác và bảo tồn là điều em rất chú trọng. Đó cũng là lý do chúng em phải đi thu mẫu liên tục. Gen quý sẽ được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm để sau này phát triển vùng trồng”.
Nhiều nhà khoa học cho biết, không ít cây thuốc quý bị người dân khai thác theo đơn đặt hàng của nước ngoài, cả tiểu ngạch lẫn chính ngạch. Muốn trồng và chăm sóc để giữ đúng hàm lượng hoạt chất lại rất tốn kém, khiến doanh nghiệp trong nước ngần ngại đầu tư dài hạn. Trong khi đó, các nước như Trung Quốc làm chủ công nghệ sinh học và có hệ thống chế biến ở quy mô lớn, nên họ có thể cung cấp dược liệu với nhiều mức giá khác nhau. Thậm chí có loại dược liệu trước khi xuất khẩu đã bị rút hoạt chất, nhưng thị trường Việt Nam vẫn mua vì phục vụ nhu cầu đa dạng của doanh nghiệp.
![]() |
| TS Nguyễn Thị Thúy Hường và TS Bá Thị Châm ( Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) thu mẫu dược liệu. |
Không chỉ khó khăn về công nghệ và chi phí sản xuất, ngành nghiên cứu dược liệu trong nước cũng đối mặt nhiều thách thức. Theo chia sẻ của một số nhà khoa học, người có năng lực thật sự đôi khi chưa được trọng dụng đúng mức, còn tồn tại tình trạng lợi ích nhóm trong phân bổ đề tài; các nghiên cứu giá trị cao không phải lúc nào cũng đến tay những người có tâm và có tầm. Một số nhà khoa học nữ thậm chí gặp khó khăn trong việc tiếp cận đề tài hoặc cơ hội hợp tác. Điều này khiến quá trình nghiên cứu bị chậm trễ, giảm hiệu quả chuyển giao và khó tạo ra các sản phẩm chất lượng cao. Tuy vậy, vẫn có những người kiên định theo đuổi con đường này. TS Nguyễn Thị Thúy Hường chia sẻ mong muốn có được những sản phẩm thật sự tốt, chủ động vùng nguyên liệu. Một số nhà nghiên cứu trẻ đã xây dựng được trang trại đủ rộng để lưu giữ nguồn gen và phục vụ chế biến. Họ được xem là những hạt nhân quan trọng trong quá trình xây dựng ngành dược liệu Việt Nam hiện đại.
Một nhà khoa học khác cho biết họ chỉ lựa chọn nghiên cứu các loại dược liệu mà Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về khí hậu, thổ nhưỡng, những loại mà nước ngoài buộc phải mua từ Việt Nam nếu muốn có hoạt chất tốt. Đây cũng là hướng đi giúp nâng cao vị thế dược liệu Việt Nam trên thị trường quốc tế trong dài hạn.
Nhìn tổng thể, dược liệu Việt Nam giàu tiềm năng nhưng để vươn xa cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống. Chuẩn hóa vùng trồng, nâng cấp công nghệ chế biến, đầu tư nghiêm túc cho nghiên cứu và phát triển, củng cố hệ thống truy xuất nguồn gốc, cùng với việc xây dựng thương hiệu quốc gia cho dược liệu, đó là con đường tất yếu để ngành dược liệu Việt Nam chinh phục thị trường trong và ngoài nước. Khi làm chủ được nguồn nguyên liệu, công nghệ và tri thức, Việt Nam hoàn toàn có thể biến kho tàng dược liệu phong phú của mình thành động lực phát triển kinh tế bền vững trong tương lai.





















































Nữ tiến sĩ “tối ưu bộ rễ Ba kích” ở vùng dược liệu tiền tỷ
Không phải là người đầu tiên nuôi cấy mô cây Ba kích, nhưng TS Nguyễn Thị Thúy Hường là người đã tối ưu hóa được bộ rễ của loại cây này – phần giá trị nhất trong dược liệu.