Công thức tính LDR gồm có hai cấu phần chính. Trong đó, tử số là tổng dư nợ cho vay (tín dụng) và mẫu số là tổng tiền gửi. Thông thường, tín dụng được coi là tài sản kém linh hoạt nhất trong số các tài sản sinh lời của ngân hàng. Do đó, nếu tỷ lệ LDR tăng thì tính thanh khoản của ngân hàng giảm đi tương ứng. Hiểu đơn giản, LDR lên cao quá thì khả năng tự bảo vệ khỏi nguy cơ bị rút tiền gửi đột ngột kém. Trái lại, nếu tỷ lệ LDR thấp thì thanh khoản ngân hàng tốt, có thể thoải mái tăng trưởng, dễ dàng quyết định đầu tư và cho vay, khi nhiều khách hàng rút tiền gửi cùng lúc thì cũng không khó để đáp ứng.
Tại Thông tư số 22, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu mức LDR tối đa của các ngân hàng thương mại là 85%. Tức là ngân hàng huy động được 100 đồng chỉ được sử dụng cho vay 85 đồng, còn 15 đồng phải để dự trữ, làm “bộ đệm” thanh khoản. Và 15 đồng dự trữ này thường được ngân hàng mua tài sản có tính thanh khoản cao để dự trữ như trái phiếu chính phủ. Trong trường hợp xấu nhất, các ngân hàng có thể lấy khoản dự trữ bán ra, hoặc cũng có thể chiết khấu với Ngân hàng Nhà nước trên thị trường mở (OMO) để lấy tiền trả các nghĩa vụ nợ.
Việc tự “cộng trừ nhân chia” như vậy cũng không phản ánh sự chính xác tuyệt đối mà chỉ là “tạm ước tính”. Bởi lẽ, mặc dù công thức tính LDR có hướng dẫn tử số/mẫu số là gì nhưng có một số khoản được loại trừ theo hướng dẫn tại Thông tư 22 như cho vay theo chỉ định của Chính phủ, chống bão lụt, thiên tại dịch bệnh...; trong khi, các tổ chức tín dụng công bố con số cấp tín dụng thì chỉ chung chung, không nói rõ có/không việc loại trừ các khoản cấp tín dụng được phép. Theo quy định, Thông tư 22 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2020 và cũng có đề cập đến các chế tài xử lý tại khoản 2 của điều 9. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là tính minh bạch của các ngân hàng đại chúng khi đã niêm yết trên sàn trong việc công bố các chỉ số theo quy định của pháp luật đã không được cơ quan quản lý nào để mắt tới.
Trong 16 ngân hàng niêm yết, chỉ VietinBank, HDBank có LDR quý 1/2021 giảm so với cuối năm 2020. Thậm chí mức giảm không đáng kể, chỉ 0,8 điểm phần trăm. Ở chiều ngược lại có tới 14 ngân hàng tăng tỷ lệ LDR. Nổi bật nhất là MSB tăng 6,81 điểm phần trăm, từ mức 90,66% lên 97,475%. Tiếp sau là VPBank với mức tăng 5 điểm phần trăm, từ mức 124,58% lên 129,58%, đây cũng là ngân hàng có tỷ lệ LDR cao nhất theo khảo sát. Một số ngân hàng khác cũng ghi nhận tăng ở chỉ số LDR gồm BIDV tăng 1,63 điểm phần trăm; MBBank tăng 2,88 điểm phần trăm; Techcombank tăng 3,06 điểm phần trăm; ACB tăng 3,89 điểm phần trăm; VIB tăng 0,41 điểm phần trăm...
Chỉ số LDR ở hầu hết ngân hàng đều tiệm cận 100% hoặc hơn, rất ít ngân hàng loanh quanh 85% như Agribank, chỉ số LDR ở mức 83%! Đây là kết quả của một quá trình tái cơ cấu 8 năm, kể từ 2013. Những ngân hàng chưa niêm yết, vẫn còn ở sàn UpCom như VietA Bank, BaoViet Bank, PVCombank, SCB... nếu muốn đi tìm chỉ số LDR thì như mò kim đáy biển. LDR với ngân hàng thương mại nhà nước là 90%, ngân hàng hợp tác xã: 80%, ngân hàng thương mại cổ phần, liên doanh, 100% vốn nước ngoài: 80% và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 90%.
Trước năm 2011, có gần 10 ngân hàng trong diện tái cơ cấu bắt buộc do bị mất thanh khoản, trong đó có thanh khoản kỳ hạn mà đến nay, hậu quả vẫn chưa giải quyết triệt để. Từ thực tế này, cùng với quá trình triển khai quyết định của Thủ tướng tái cơ cấu toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng qua 2 giai đoạn, năm 2014, Ngân hàng Nhà nước văn bản hoá chỉ số LDR bằng Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014.
Ngân hàng Nhà nước chưa bao giờ công bố chỉ số này của từng ngân hàng. Tương tự, các ngân hàng cũng chưa bao giờ tự mình công bố, chỉ một số rất ít, có vẻ như là nhằm mục đích “xức nước hoa lên thương hiệu” trước, trong các thương vụ bán vốn và/hoặc giải quyết sự cố khủng hoảng truyền thông... Bởi vậy, giới phân tích và quan sát muốn tính được chỉ số LDR của các ngân hàng, đành phải dựa vào số liệu huy động/cho vay của ngân hàng trên các báo cáo tài chính.
Nhật Hạ