Năm 2025 chứng kiến hàng loạt hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện với tần suất dày hơn, cường độ mạnh hơn và tính bất thường ngày càng rõ nét. Mưa lớn kéo dài, ngập úng diện rộng, lũ quét liên tiếp từ Bắc vào Nam… cho thấy những biến động khí hậu(BĐKH) không còn là cảnh báo xa xôi mà đã tác động trực tiếp tới an toàn cộng đồng và sự ổn định kinh tế – xã hội. Trước bối cảnh đó, việc hiểu đúng về xu thế khí hậu, cơ chế gây ra các hiện tượng cực đoan và những yêu cầu mới đặt ra cho công tác quản lý rủi ro được dư luận đặc biệt quan tâm.
Nhằm làm rõ các vấn đề này, Tạp chí đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà, Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi Khí hậu.
![]() |
| PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà. Ảnh: Hoàng Toàn |
Thưa PGS.TS, thời gian gần đây xuất hiện nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan như mưa lớn kéo dài, ngập úng, lũ quét xảy ra bất thường. Bà đánh giá mức độ biến động khí hậu của Việt Nam hiện nay đang khác trước như thế nào?
Trước hết phải khẳng định rằng Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu (UNDP, World Bank). Với đặc thù vị trí địa lý, có bờ biển dài hơn 3.200 km, địa hình dốc, hẹp, phân mảnh, cùng hệ thống sông ngòi ngắn, nhiều lưu vực nhỏ. Với điều kiện tự nhiên như vậy, nước ta phải đối mặt với 22 loại hình thiên tai và gần như tháng nào cũng có nguy cơ thiên tai xảy ra. Trong những năm gần đây, xu hướng cực đoan hóa thời tiết biểu hiện rất rõ. Nắng nóng và sóng nhiệt xuất hiện dày hơn, kéo dài hơn; bão, lũ lụt, lũ quét sạt lở đất lại diễn biến phức tạp, khó dự báo và gây thiệt hại vô cùng lớn về người và kinh tế. Một số cơn bão gần đây như Yagi, Ragasa đều có cường độ mạnh và một số cơn bão có quỹ đạo bất thường hơn so với trung bình nhiều năm, ví dụ như ATNĐ di chuyển từ Malaysi sang Nam Biển Đông. Đặc biệt, năm 2024 và 2025 ghi nhận hàng loạt kỷ lục mới: mưa 24 giờ tại Bạch Mã lên tới 1.740 mm-mức hiếm gặp trên thế giới; mưa cường suất cao và vượt kỉ lục về lượng ở Hà Nội, Thái Nguyên; lũ lịch sử tại Trung Bộ và Nam Trung Bộ – từ Gia Lai, Khánh Hòa đến Đắk Lắk – gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản.
![]() |
| Người dân chèo thuyền trên đường phố Hội An, khu vực nước lũ dâng cao đến mái nhà. Ảnh: Reuters |
Từ các số liệu quan trắc cập nhật mới nhất, được sử dụng trong Kịch bản biến đổi khí hậu quốc gia 2025 (sớm phát hành trong thời gain tới), thấy rằng nhiệt độ trung bình của Việt Nam đã tăng hơn 1°C trong hơn 60 năm qua. Tốc độ tăng trung bình đạt 0,2°C mỗi thập kỷ, cao hơn mức trung bình toàn cầu, và đặc biệt tăng nhanh hơn rõ rệt trong thập kỷ gần đây. Bên cạnh đó, gia tăng nhanh đáng kể của của nhiệt độ tối cao dẫn đến nắng nóng sóng nhiệt xẩy ra thường xuyên và cường độ mạnh hơn. Cùng vưới lượng mưa trung bình và mưa 1 ngày lớn nhất, mưa 5 ngày lớn nhất, mưa do bão bão đều cho thấy xu thế tăng, dù khác nhau giữa các vùng. Tại Bắc Bộ và Trung Bộ, mức tăng về cường độ và tần suất là rõ nét nhất.
Như vậy, BĐKH đã thực sự làm gia tăng các hiện tượng cực đoan cả về tần suất, cường độ và tính bất thường, gây ra những tác động nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất của người dân. Với xu thế tiếp tục gia tăng nhiệt độ toàn cầu, sẽ dẫn đến những thay đổi hoàn lưu khí quyển và đại dương, dẫn đến những diễn biến khó lường hơn của các hiện tượng cực đoan, gây khó khăn cho công tác phòng chống và ứng phó.
Nhiều chuyên gia cho rằng các hiện tượng mưa lũ vừa qua không chỉ là bất thường đơn lẻ mà phản ánh sự dịch chuyển của các quy luật khí hậu. Bà có thể phân tích rõ hơn xu hướng này và các cơ chế khí quyển đại dương đứng phía sau?
Những đợt mưa lũ rất lớn xảy ra vừa qua tại khắp miền Bắc miền Trung, cùng với 21 Bão và ATNĐ trên BĐ năm nay (vượt kỉ lục 20 XTNĐ 2017) cho thấy đây không còn là những bất thường đơn lẻ, mà phản ánh rõ xu hướng khí hậu đang chuyển dịch theo hướng cực đoan hơn. Nhiều nơi đã được tiệm cận hoặc vượt kỷ lục lịch sử quan trắc, điều vốn hiếm xảy ra trước đây. Các cực đoan mưa lũ vừa qua kết quả từ nhiều cơ chế khí quyển đại dương cùng tác động, tạo thành một tổ hợp hình thế cực đoan, và không giới hạn chỉ ở quy mô nhỏ, mà trên cả quy mô khu vực như gần đây ở cả Đông Nam á.
![]() |
Trước hết, một yếu tố quan trọng là dị thường nhiệt độ mặt biển (SST) ở Tây bắc Thái bình dương và Biển Đông và khu vực Biển Philippines dẫn đến hoạt động bất thường của mùa bão năm nay, vượt trung bình nhiều năm ở trên Biển đông. Sự thay đổi của hoàn lưu cũng dẫn đến hoạt động khác thường của các hệ thống quy mô lớn như áp cao cận nhiệt đới, giải hội tụ nhiệt đới, rãnh thấp trên cao, dẫn đến đường đi của các cơn bão cũng rất dị thường, trái quy luật. Thêm vào đó nước biển ấm khiến lượng ẩm bốc hơi rất lớn, tạo nguồn “nhiên liệu” dồi dào cho các đợt mưa cực đoan. Trong quá khứ, chúng ta từng ghi nhận các hình thế gió Đông và không khí lạnh tương tự, nhưng lượng mưa không đạt mức kỷ lục như hiện nay; sự ấm lên của mặt biển chính là yếu tố “khuếch đại” khiến lượng mưa tăng mạnh.
Sự thay đổi hoàn lưu cũng dẫn đến thay đổi về xâm nhập của các đợt lạnh từ phía bắc, thông thường những tháng đầu mùa đầu không khí lạnh xuống thẳng theo hướng bắc -nam, duy trì dạng thời tiết khô, những tháng cuối mùa sẽ lệch sang phía đông, gây biến tính và mang hơi ẩm. Tuy nhiên, đầu mùa năm nay, không khí lạnh đã xâm nhập theo hướng lệch đông, dẫn đến kiểu thời tiết nhiều ẩm từ nước biển ấm. Cùng lúc, trên các tầng khí quyển thấp và trung tồn tại một vùng gió Đông rất mạnh, mang hơi ẩm từ biển thổi trực diện vào dải bờ biển Trung Bộ. Gió bị chặn bởi địa hình cao dốc của Trường Sơn Nam, tạo nên hội tụ gió quy mô lớn và mưa địa hình kéo dài, tập trung và rất khó giảm trong thời gian ngắn. Dải gió Đông này không chỉ đến từ gió mùa Đông Bắc mà còn được bổ sung và duy trì bởi áp cao cận nhiệt đới, vốn hoạt động mạnh hơn trung bình nhiều năm trong thời điểm này dẫn đến .Trên nền đó, rãnh thấp xích đạo hoạt động mạnh và mở rộng lên phía Bắc, gia tăng nhiễu động đới gió Đông và khiến mưa khó dứt. Như vậy, đợt mưa lần này xuất hiện khi nhiều hình thế mạnh chồng lấn trong không gian và thời gian – một dạng tổ hợp cực đoan, tức là sự kết hợp tác động của nhiều hình thế khí quyển cùng một lúc.
Đặc biệt là tác động nền của biến đổi khí hậu, vốn làm ấm khí quyển và đại dương, giúp không khí chứa nhiều ẩm hơn. Theo định luật vật lý, cứ mỗi 1°C tăng lên toàn cầu, lượng hơi ẩm cực đại trong khí quyển có thể tăng khoảng 7%. Điều này đồng nghĩa: cùng một tổ hợp hình thế như trong quá khứ, lượng mưa hiện nay mạnh hơn, tập trung hơn và dễ phá kỷ lục hơn trước. Lũ lịch sử trên nhiều sông miền Trung những ngày vừa qua chính là sản phẩm của sự cộng hưởng này: hình thế thì quen, nhưng nền khí hậu đã khác.
Các hiện tượng khí hậu cực đoan thường lan theo không gian vùng, không theo ranh giới hành chính. Theo bà, điều này đặt ra yêu cầu gì cho công tác quản lý rủi ro và bảo đảm an toàn phát triển kinh tế vùng?
Các hiện tượng khí hậu cực đoan không theo ranh giới hành chính mà trải rộng theo không gian của lưu vực và của địa hình. Một đợt mưa lớn có thể kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Bình Định; một đợt lũ quét có thể ảnh hưởng cùng lúc Gia Lai – Kon Tum – Quảng Ngãi; hay một cơn bão có thể tác động đồng thời đến toàn bộ miền Trung. Điều này đặt ra yêu cầu rất rõ ràng: quản lý rủi ro khí hậu phải được tổ chức theo tư duy liên vùng, liên lưu vực, chứ không thể chia cắt theo địa giới từng tỉnh để mỗi địa phương “tự làm, tự ứng phó”.
![]() |
| PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà và ông Jonathan Wallace Baker, Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam. Ảnh: Hoàng Toàn |
Trong thực tế, một đoạn đê xung yếu ở hạ du sông Hồng chịu áp lực không chỉ từ địa phương sở tại mà từ lượng nước đổ về từ hàng chục tỉnh miền núi phía Bắc. Một điểm sạt lở trên Quốc lộ 1 hay đường sắt Bắc–Nam có thể làm gián đoạn logistic cho cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Một hồ chứa ở thượng nguồn Tây Bắc hay Tây Nguyên khi vận hành không đồng bộ có thể tạo áp lực lớn cho hạ du ở nhiều tỉnh khác. Điều đó cho thấy phụ thuộc lẫn nhau giữa các địa phương đã trở thành quy luật, đặc biệt trong bối cảnh khí hậu ngày càng khắc nghiệt.
Vì vậy, yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất là xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bản đồ rủi ro dùng chung toàn quốc, bên cạnh đó cũng cần chi tiết cụ thể cho từng khu vực, lưu vực (sông Hồng – Thái Bình, sông Mã, sông Cả, Vu Gia – Thu Bồn, Đồng Nai, Mekong…). Dữ liệu quan trắc mưa, lũ, ngập, sạt lở, bão, gió mạnh… phải được chia sẻ theo thời gian thực giữa các tỉnh, để lãnh đạo địa phương ra quyết định dựa trên bức tranh rủi ro tổng thể, thay vì chỉ nhìn trong “ranh giới hành chính” của mình.
Tiếp theo là yêu cầu phối hợp liên vùng trong vận hành hồ chứa, đê điều, giao thông và các hạ tầng trọng yếu. Quyết định xả lũ ở một địa phương không thể tách rời tình hình hạ lưu; việc đóng, mở tuyến giao thông huyết mạch cũng phải xem xét tác động lan sang các tỉnh lân cận. Trong bối cảnh mưa cực đoan và bão mạnh xuất hiện ngày càng dồn dập ở cả ba miền, cơ chế điều phối liên vùng, liên ngành là điều kiện tiên quyết để giảm thiệt hại.
Ở chiều ngược lại, quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của từng địa phương và từng vùng cần phải tích hợp đầy đủ yếu tố rủi ro khí hậu liên hoàn. Các trung tâm kinh tế, khu công nghiệp, cảng biển, sân bay, hệ thống vẩn chuyển và các trục giao thông quốc gia phải được thiết kế theo chuẩn an toàn khí hậu mới, đủ khả năng chống chịu mưa lớn, ngập sâu, bão mạnh, đảm bảo hành lang thoát lũ... Một tỉnh không thể phát triển bền vững nếu hạ tầng của tỉnh bên cạnh dễ bị “đứt gãy khí hậu”.
Có thể nói, trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm gia tăng tính cực đoan và bất định trên phạm vi cả nước, liên kết vùng - chia sẻ dữ liệu - điều phối hành động-quy hoạch an toàn với cực đoan khí hậu không chỉ là yêu cầu kỹ thuật mà là điều kiện sống còn để phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Thiên tai không dừng lại ở ranh giới tỉnh, nên mọi chính sách phòng ngừa và ứng phó cũng phải vượt qua ranh giới đó.
Dữ liệu khí tượng thủy văn và cảnh báo sớm có vai trò như thế nào trong việc giảm thiểu thiệt hại kinh tế trước các đợt mưa lũ bất thường?
Dữ liệu khí tượng, thủy văn và hệ thống cảnh báo sớm đóng vai trò như “tuyến phòng thủ mềm” nhưng hiệu quả nhất trong việc giảm thiểu thiệt hại kinh tế trước các đợt mưa lũ bất thường. Khi khí hậu ngày càng cực đoan, thông tin chính xác và kịp thời trở thành yếu tố quyết định để chính quyền và người dân chủ động ứng phó, hạn chế tối đa tổn thất về người và tài sản.
Nguồn dữ liệu quan trắc thu thập từ mạng lưới trạm mặt đất, radar thời tiết, vệ tinh, định vị sét và các trạm đo tự động theo thời gian thực chính là nền móng cho mọi bản tin dự báo. Những dữ liệu này giúp mô hình nhận diện sớm các khu vực có nguy cơ mưa lớn, ngập sâu, lũ quét hay sạt lở đất,đặc biệt là ở những khu vực có địa hình phức tạp hoặc đô thị hóa nhanh.
![]() |
| PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà: "Trong bối cảnh biến đổi khí hậu khiến thiên tai ngày càng bất thường và cực đoan, dữ liệu KTTV và cảnh báo sớm không chỉ là công cụ dự báo đơn thuần mà đã trở thành hệ thống an ninh kinh tế – xã hội, giúp bảo vệ hạ tầng, duy trì sự vận hành của nền kinh tế và bảo đảm an toàn cho cộng đồng trên phạm vi toàn quốc". |
Cảnh báo được đưa ra sớm hơn 2–3 ngày đồng nghĩa với việc các địa phương có thể chủ động ứng phó, như gia cố đê điều, sơ tán dân, cấm đường hoặc bảo vệ các tuyến giao thông xung yếu trước khi nguy hiểm xảy ra.
Đáng chú ý, trong những năm gần đây, dữ liệu khí tượng thủy văn (KTTV) còn trở thành nền tảng cho việc ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học như trí tuệ nhân tạo, học máy và phân tích dữ liệu lớn.
Hiệu quả kinh tế của cảnh báo sớm đã được nhiều tổ chức quốc tế chứng minh. Theo World Bank và các nghiên cứu gần đây, mỗi 1 USD đầu tư vào hệ thống cảnh báo sớm có thể giúp giảm 6–10 USD thiệt hại nhờ khả năng giảm gián đoạn sản xuất, bảo vệ hạ tầng, hạn chế rủi ro với chuỗi cung ứng và giảm chi phí khắc phục sau thiên tai.
Có thể nói, trong bối cảnh biến đổi khí hậu khiến thiên tai ngày càng bất thường và cực đoan, dữ liệu KTTV và cảnh báo sớm không chỉ là công cụ dự báo đơn thuần mà đã trở thành hệ thống an ninh kinh tế – xã hội, giúp bảo vệ hạ tầng, duy trì sự vận hành của nền kinh tế và bảo đảm an toàn cho cộng đồng trên phạm vi toàn quốc.
Trước xu thế khí hậu ngày càng khó lường, bà đề xuất những giải pháp trọng tâm nào để tăng cường năng lực thích ứng của các địa phương và bảo đảm sự ổn định kinh tế – xã hội trong thời gian tới?
Trước một nền khí hậu đang biến đổi nhanh và khó lường, các địa phương không thể tiếp tục ứng phó theo cách bị động như trước đây. Thiên tai ngày càng cực đoan, dồn dập và mang tính liên hoàn, vì vậy thích ứng khí hậu phải được nâng lên thành một chiến lược phát triển, dựa trên khoa học và công nghệ hiện đại.
Ưu tiên hàng đầu là nâng cấp hệ thống dự báo – cảnh báo sớm. Khi mạng lưới quan trắc dày hơn, dữ liệu đầy đủ hơn và mô hình tính toán mạnh hơn, chúng ta mới có thể dự báo chính xác mưa lớn bất thường đến cấp xã/phường, kèm theo cảnh báo cụ thể về lũ quét, sạt lở hay ngập đô thị.
Song song với đó, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn sẽ giúp nhận dạng bất thường theo thời gian thực, cải thiện dự báo ngắn hạn, rất ngắn hạn và chuyển hóa thông tin phức tạp thành cảnh báo dễ hiểu cho người dân. Một bước chuyển quan trọng khác là phát triển hệ thống dự báo tác động ứng với từng loại hình thiên tai.
Các địa phương đồng thời cần xây dựng kịch bản thiên tai mới dựa trên dữ liệu khí hậu cập nhật, bản đồ ngập – lũ quét – sạt lở chi tiết đến từng thôn bản, và coi đây là nền tảng bắt buộc trong mọi kế hoạch phát triển. Quy hoạch đô thị, giao thông, nông nghiệp hay công nghiệp phải tính đến rủi ro khí hậu, đảm bảo hạ tầng mới đủ sức chống chịu mưa cực đoan, bão mạnh và ngập lụt.
Bên cạnh đó, năng lực ứng phó tại chỗ phải được nâng lên: đào tạo cán bộ, diễn tập thường xuyên, trang bị hệ thống cảnh báo cộng đồng và xây dựng mô hình “xã an toàn”, “đô thị an toàn”. Khi cộng đồng chuẩn bị tốt, thiệt hại luôn giảm đi rõ rệt.
Có thể nói, giảm thiểu rủi ro trong bối cảnh khí hậu cực đoan không chỉ là xử lý sự cố khi nó đã xảy ra, mà là chủ động nhận diện – lượng hóa – kiểm soát rủi ro ngay từ khâu quy hoạch và đầu tư. Đó là con đường duy nhất giúp các địa phương nâng cao khả năng chống chịu, bảo vệ người dân và giữ vững ổn định kinh tế – xã hội trong những năm tới.
Trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư!





















































Châu Âu mở kho dữ liệu khí tượng toàn cầu hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu
Động thái này được kỳ vọng sẽ tăng cường khả năng cảnh báo sớm các hiện tượng thời tiết cực đoan trên toàn cầu.