Biểu hiện của biến đổi khí hậu
Ở Việt Nam, trong thời kỳ 1958-2018, nhiệt độ có xu thế tăng tại hầu hết các trạm quan trắc. Tính trung bình cả nước, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,89oC (khoảng 0,15oC/thập kỷ). Lượng mưa năm có xu thế giảm ở các khu vực phía Bắc (từ 5%÷10%/61 năm); tăng ở các khu vực phía Nam (từ 5÷15%/61 năm). Số ngày nóng có xu thế tăng ở hầu hết các khu vực của cả nước với mức tăng phổ biến 3÷5 ngày/thập kỷ, đặc biệt, tăng tương đối nhiều ở các vùng Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Số tháng hạn có xu thế tăng ở khu vực phía Bắc, trong đó, tăng nhiều nhất ở Đồng bằng Bắc Bộ; giảm ở Trung Bộ, phía Nam lãnh thổ và giảm nhiều nhất ở Nam Trung Bộ. Bão và áp thấp nhiệt đới ở khu vực Biển Đông, ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam hoặc đổ bộ vào Việt Nam là ít biến đổi. Tuy nhiên, số cơn bão mạnh (sức gió mạnh nhất từ cấp 12 trở lên) có xu thế tăng nhẹ. Theo số liệu quan trắc, tính trung bình cho tất cả các trạm, mực nước biển tăng khoảng 2,7mm/năm. Theo số liệu đo đạc từ vệ tinh trong giai đoạn 1993-2018, mực nước trung bình toàn Biển Đông tăng 4,1mm/năm; mực nước trung bình khu vực ven biển Việt Nam tăng 3,6mm/năm (Bộ TNMT, 2021a).
Kịch bản biến đổi khí hậu cho Việt Nam
Kịch bản BĐKH cho Việt Nam được Bộ TNMT công bố cho thấy (Bộ TNMT, 2021a), nhiệt độ không khí trung bình năm ở tất cả các vùng khí hậu đều có xu thế tăng so với thời kỳ cơ sở; phía Bắc tăng nhanh hơn so với phía Nam; ở sâu trong lục địa tăng nhanh hơn so với ven biển, và ở đô thị tăng nhanh hơn so với các vùng nông thôn. Theo kịch bản RCP4.5, nhiệt độ trung bình năm trên toàn quốc vào giữa thế kỷ có mức tăng 1,2÷1,7oC; đến cuối thế kỷ, có mức tăng 1,6÷2,4oC. Theo kịch bản RCP8.5, nhiệt độ trung bình năm trên toàn quốc vào giữa thế kỷ có mức tăng 1,7÷2,3oC; đến cuối thế kỷ, có mức tăng 3,2÷4,2oC. Lượng mưa năm có xu thế tăng ở tất cả các vùng khí hậu. Lượng mưa mùa mưa, mùa khô có xu thế tăng trên đa phần diện tích cả nước. Theo kịch bản RCP4.5, lượng mưa năm có xu thế tăng trên phạm vi cả nước, với mức tăng phổ biến 10÷15% vào giữa thế kỷ và 10÷20% vào cuối thế kỷ. Theo kịch bản RCP8.5, đến cuối thế kỷ, lượng mưa năm có xu thế tăng phổ biến từ 10÷25%, đáng lưu ý là một phần diện tích thuộc Đông Bắc lượng mưa có thể tăng trên 40%. Cùng với xu thế đó, các cực đoan nhiệt độ cao và mưa lớn đều được dự tính gia tăng nhanh theo các phương án kịch bản RCP 4.5 và RCP 8.5.
Mực nước biển ở Việt Nam cũng được dự tính là một trong những khu vực tăng cao. Theo kịch bản RCP4.5, vào năm 2100, khu vực ven biển Móng Cái - Hòn Dáu có mực nước biển dâng thấp nhất, khu vực quần đảo Trường Sa có mực nước biển dâng cao nhất, tương ứng là 52 cm (33 cm ÷ 75 cm) và 57 cm (33 cm ÷ 83 cm), trung bình toàn dải ven biển là 53 cm (32 cm ÷ 76 cm). Theo kịch bản RCP8.5, vào năm 2100, khu vực ven biển Móng Cái - Hòn Dấu có mực nước biển dâng thấp nhất, khu vực quần đảo Trường Sa có mực nước biển dâng cao nhất, tương ứng là 72 cm (49 cm ÷ 101 cm) và 77 cm (50 cm ÷ 107 cm); trung bình toàn dải ven biển là 73 cm (49 cm ÷ 103 cm). Trường hợp cực đoan nhất, nếu mực nước biển dâng 100cm vào cuối thế kỷ 21 thì Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có nguy cơ ngập cao (47,29% diện tích) trong đó Cà Mau và Kiên Giang là 2 tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất, tương ứng 79,62% và 75,68% diện tích (Hình 1). Khoảng 13,20% diện tích Đồng bằng sông Hồng; 1,94% diện tích tỉnh Quảng Ninh có nguy cơ bị ngập. Khoảng 1,53% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận có nguy cơ bị ngập, trong đó, tỉnh Thừa Thiên Huế có nguy cơ cao nhất (5,49% diện tích), Bình Thuận là tỉnh có nguy cơ ngập thấp nhất (0,19% diện tích). Khoảng 17,15% diện tích TP. Hồ Chí Minh; khoảng 4,84% diện tích Bà Rịa - Vũng Tàu có nguy cơ bị ngập (Bộ TNMT, 2021a).
![]() |
Hình 1: Bản đồ nguy cơ ngập khu vực Nam bộ nếu nước biển dâng 100 cm |
BĐKH làm gia tăng tính dễ tổn thương của các hệ thống kinh tế-xã hội và môi trường, nên sẽ có tác động không nhỏ đối với an ninh phi truyền thống. Với những hiện tượng khí hậu cực đoan diễn ra ngày càng thường xuyên và nghiêm trọng, Việt Nam phải đối mặt với những rủi ro liên quan đến an ninh lương thực, an ninh nước, an ninh sức khỏe và di cư do BĐKH. Với những thách thức hiện hữu và tiềm ẩn, Việt Nam cần phát triển các chính sách và chiến lược ứng phó với BĐKH không chỉ ở cấp quốc gia mà còn tích hợp vào các chiến lược an ninh khu vực và quốc tế. Các biện pháp này không chỉ giúp bảo vệ cộng đồng dễ bị tổn thương, mà còn tăng cường khả năng chống chịu và ổn định của quốc gia trước những biến đổi khí hậu dài hạn.
Tác động của BĐKH liên quan đến an ninh phi truyền thống
Tác động đến an ninh lương thực: BĐKH ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, một ngành kinh tế chủ chốt và là nguồn cung cấp lương thực chính tại Việt Nam. Tình trạng nhiệt độ gia tăng và biến động khí hậu thất thường làm giảm năng suất cây trồng, đặc biệt là các cây lương thực chủ lực như lúa gạo. Theo IPCC (2023), nhiệt độ tăng từ 1,5 đến 2oC có thể làm giảm sản lượng lúa gạo ở các khu vực nhiệt đới tới 10-20%. Tại Việt Nam, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - vựa lúa lớn nhất cả nước - đang chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ hạn hán và xâm nhập mặn, làm giảm diện tích canh tác và tăng nguy cơ mất mùa (Nguyễn Đăng Mậu và Dương Văn Khảm, 2022). BĐKH không chỉ đe dọa đến an ninh lương thực quốc gia mà còn ảnh hưởng đến sinh kế của hàng triệu nông dân phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp. Thiệt hại kinh tế do mất mùa và chi phí cao để bảo vệ mùa màng khỏi tác động của BĐKH đang đẩy nhiều hộ nông dân vào tình trạng nghèo đói và bấp bênh.
Tác động đến an ninh nước và quản lý tài nguyên nước: An ninh nước là một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất từ BĐKH tại Việt Nam. Tình trạng nước biển dâng và xâm nhập mặn ảnh hưởng trực tiếp đến các nguồn nước ngọt ở vùng ven biển và các khu vực trũng như ĐBSCL. BĐKH cũng khiến lượng mưa trở nên bất ổn, dẫn đến hạn hán kéo dài tại các khu vực miền Trung và Tây Nguyên, ảnh hưởng đến cả sản xuất nông nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của người dân (Bộ NNPTNT, 2022). Theo dự báo, đến năm 2050, nếu không có biện pháp thích ứng hiệu quả, khoảng 18% diện tích ĐBSCL có thể bị ngập thường xuyên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước ngọt của cả vùng (Bộ TNMT, 2021b). Nguồn nước ngày càng khan hiếm gây ra sự cạnh tranh giữa các nhóm sử dụng, bao gồm nông dân, các ngành công nghiệp, và các khu vực đô thị, tạo nên những nguy cơ tiềm ẩn cho sự ổn định xã hội và kinh tế.
Tác động đến an ninh sức khỏe và các bệnh liên quan đến khí hậu: Sức khỏe cộng đồng cũng là lĩnh vực chịu tác động trực tiếp từ BĐKH, với sự gia tăng của các bệnh lây truyền qua môi trường như sốt xuất huyết, sốt rét và các bệnh về đường hô hấp. Nhiệt độ tăng cao và thời tiết khắc nghiệt làm gia tăng số lượng muỗi vằn, tác nhân chính gây bệnh sốt xuất huyết, khiến dịch bệnh bùng phát mạnh mẽ tại các khu vực nhiệt đới như Việt Nam (Busby, 2021). Ngoài ra, các hiện tượng thời tiết cực đoan như nắng nóng kéo dài và bão lụt cũng làm suy giảm chất lượng không khí, gia tăng các vấn đề về hô hấp và tim mạch. Theo WHO (2023), các biến đổi về khí hậu có thể làm gia tăng tỷ lệ tử vong và bệnh tật, đặc biệt ở các nhóm dân cư dễ bị tổn thương như trẻ em và người già.
Tác động đến di cư: Một trong những tác động sâu rộng nhất của BĐKH đối với ANPTT là hiện tượng di cư do khí hậu do sự tác động khác nhau giữa các khu vực, như vùng ven biển, vùng núi, vùng đồng bằng sông cứu long. Do mất đất canh tác, thiếu nước và các sự kiện thời tiết cực đoan, nhiều hộ gia đình buộc phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm cơ hội sinh kế tại các khu vực khác. Điều này không chỉ gây áp lực lên các thành phố lớn mà còn làm gia tăng các vấn đề về xã hội và an ninh, như tăng trưởng dân số không kiểm soát và áp lực lên hạ tầng cơ sở tại các khu đô thị. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB, 2022), đến năm 2050, Việt Nam có thể chứng kiến hàng triệu người phải di cư nội địa do BĐKH, đặt ra thách thức lớn cho các chính quyền địa phương và các hệ thống phúc lợi xã hội tại các vùng tiếp nhận dân cư. Di cư do khí hậu đã trở thành một hiện tượng đáng lo ngại, đòi hỏi các giải pháp kịp thời để đảm bảo ổn định xã hội và cải thiện điều kiện sống của các cộng đồng dễ bị tổn thương.
Tác động đến ổn định xã hội và kinh tế: BĐKH ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, từ nông nghiệp, tài nguyên nước, sức khỏe đến tình hình di cư, các đối tượng dân cư khác nhau, đặc biệt là các đối tượng dễ bị tổn thương. Những tác động này có tính chất cộng hưởng, làm suy yếu sự ổn định xã hội, gia tăng đói nghèo và gây áp lực lên các nguồn lực quốc gia. Do đó, việc giải quyết các tác động của BĐKH đối với ANPTT cần có các chiến lược ứng phó tổng thể, bao gồm các chính sách đồng bộ và sự hợp tác quốc tế để đảm bảo tính bền vững và an toàn cho các cộng đồng dễ bị tổn thương (IPCC, 2023).
Ứng phó với BĐKH và An ninh phi truyền thống
Năm 2021, tại COP26, Việt Nam đã cam kết “sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của chính mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050”. Việt Nam cũng đã tham gia cam kết giảm 30% phát thải khí mê-tan vào năm 2030 so với mức phát thải năm 2020; Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch; Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất và một số cam kết khác.
Năm 2022, Báo cáo đóng góp Quốc gia tự quyết đinh (NDC, 2022) được cập nhật dựa trên NDC (2020) có bổ sung những điểm mới, nỗ lực của Việt Nam thực hiện cam kết tại COP26. Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 đã được phê duyệt tại Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 có những quan điểm mới của Việt Nam về BĐKH, cụ thể: (i) Thích ứng với BĐKH và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” là cơ hội để phát triển bền vững, ưu tiên cao nhất trong các quyết sách phát triển, tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và người dân; (ii) Ứng phó với BĐKH được thực hiện trên nguyên tắc công lý, công bằng, với cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân; dựa trên thể chế đồng bộ, chính sách, pháp luật hiệu lực và hiệu quả, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy nội lực và hợp tác quốc tế; góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ, tích cực hội nhập; (iii) Ứng phó với BĐKH là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, của mỗi người dân và toàn xã hội. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện cùng với sự tham gia hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội; (iv) Triển khai các giải pháp cấp bách giảm mức độ dễ bị tổn thương, tăng cường sức chống chịu trước tác động của BĐKH; ưu tiên cao nhất bảo đảm an toàn, sinh kế cho người dân ở những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề; tập trung phát triển hạ tầng ứng phó với BĐKH, chuyển dịch năng lượng dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, miền; (v) Tập trung nguồn lực cho ứng phó với BĐKH, phát triển các cơ chế tài chính, thị trường các-bon, thúc đẩy chuyển dịch đầu tư cho phát triển kinh tế ít phát thải; phát huy nguồn lực của Nhà nước thúc đẩy thu hút các nguồn lực của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, nguồn lực quốc tế, đẩy mạnh hợp tác công tư trên cơ sở bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Việc triển khai thực hiện ứng phó với BĐKH của Việt Nam gắn với ANPTT được thể hiện qua các khía cạnh sau:
a) Tham gia các cam kết quốc tế và khung pháp lý quốc gia về BĐKH. Điều này thể hiện rõ qua việc tham gia các Hội nghị quốc tế về BĐKH (COP) và các cam kết quốc tế về BĐKH, cũng như ban hành Luật và các văn bản pháp luật liên quan đến BĐKH. Việt Nam đã ban hành Luật Bảo vệ Môi trường (2014, sửa đổi 2020), Luật Khí tượng Thuỷ văn (2015), Luật Phòng chống thiên tai (2013, sửa đổi năm 2023). Ngoài ra, vấn đề BĐKH cũng đã được lồng ghép vào nhiều Luật như: Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (2010), Luật Lâm nghiệp (2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực (2012), Luật Tài nguyên nước (2012, sửa đổi năm 2023), Luật Đất đai (2024).
b) Chính sách của Nhà nước về biến đổi khí hậu và tăng cường hợp tác quốc tế. Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách chung về BĐKH, như: Chương trình MTQG về BĐKH (2008), Chiến lược quốc gia về BĐKH (2011), Kế hoạch quốc gia về BĐKH (2012), Các Chương trình/Dự án và Nhiệm vụ về BĐKH giai đoạn 2012-2022 (UBKHCN& MT Quốc Hội, 2023), Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH (2020), NDCs (2020, 2022), Chiến lược quốc gia về BĐKH đến năm 2050 (2022). Chính phủ Việt Nam cũng đã và đang tăng cường hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế nhằm huy động nguồn lực và chia sẻ kinh nghiệm trong ứng phó với BĐKH. Sự hợp tác này bao gồm các dự án với Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính như Ngân hàng Thế giới và các quốc gia đối tác trong khu vực. Các thỏa thuận hợp tác quốc tế này không chỉ giúp Việt Nam tiếp cận công nghệ và tài chính mà còn hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng các chính sách ứng phó hiệu quả và bền vững (UNDP, 2023).
c) Thực thi chính sách về an ninh lương thực và nông nghiệp. Nhằm đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh BĐKH, Chính phủ đã triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững. Bộ NNPTNT đã đề ra các giải pháp thích ứng như thay đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng các giống cây có khả năng chịu hạn, chịu mặn, và khuyến khích sử dụng công nghệ tiết kiệm nước. Tại Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất từ xâm nhập mặn và hạn hán, Chính phủ đã triển khai Đề án chuyển đổi cây trồng từ lúa sang các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn và ít chịu ảnh hưởng từ BĐKH (Bộ NNPTNT, 2022). Ngoài ra, Việt Nam còn thực hiện chính sách bảo tồn và phục hồi rừng ngập mặn nhằm giảm thiểu tác động của nước biển dâng và xâm nhập mặn, đồng thời tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng ven biển. Đây là một phần quan trọng trong Chương trình Mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030 (Bộ NNPTNT, 2022).
d) Thực thi chính sách về an ninh nước và quản lý tài nguyên nước. Để đối phó với những thách thức về an ninh nước do BĐKH, Việt Nam đã triển khai Chiến lược Quốc gia về Tài nguyên nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045, trong đó tập trung vào việc quản lý bền vững nguồn nước và giảm thiểu nguy cơ khan hiếm nước. Chính phủ đã đầu tư vào các công trình thủy lợi, hồ chứa và hệ thống dẫn nước tại các khu vực khô hạn, đồng thời khuyến khích áp dụng các công nghệ tái chế và tái sử dụng nước. Một trong những biện pháp quan trọng là xây dựng các hệ thống cảnh báo sớm và ứng dụng công nghệ AI trong dự báo thời tiết để nâng cao năng lực ứng phó với thiên tai. Thông qua việc hợp tác với các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới và UNDP, Việt Nam đang phát triển các dự án nhằm tăng cường khả năng dự báo và quản lý nguồn nước hiệu quả, đặc biệt tại các khu vực miền Trung và Tây Nguyên - những nơi dễ bị hạn hán kéo dài (Bộ TNMT.2021b).
e) Bảo vệ sức khoẻ và phòng ngừa dịch bệnh. Trước sự gia tăng của các bệnh dịch liên quan đến khí hậu, Bộ Y tế Việt Nam đã xây dựng kế hoạch phòng chống và giảm thiểu rủi ro do BĐKH gây ra đối với sức khỏe cộng đồng (Bộ Y tế, 2022). Kế hoạch này bao gồm các biện pháp giám sát và cảnh báo sớm các bệnh dịch lây truyền qua muỗi như sốt xuất huyết và sốt rét, cũng như tăng cường năng lực hệ thống y tế công cộng. Chính phủ cũng phối hợp với các tổ chức quốc tế để triển khai các chiến dịch truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của người dân về nguy cơ bệnh tật do BĐKH (WHO, 2023). Đặc biệt, Việt Nam đã thử nghiệm áp dụng các cảnh báo sốt xuất huyết dựa trên yếu tố khí hậu nhằm dự báo sớm và kiểm soát dịch bệnh hiệu quả, thông qua sự hợp tác giữa Bộ Y tế, Viện Khí tượng Thủy văn và các đối tác quốc tế (Nguyễn và cộng sự, 2023). Đây là một bước đi quan trọng trong việc đảm bảo an ninh sức khỏe cho người dân trong bối cảnh BĐKH.
g) Giải quyết vấn đề di cư và ổn định xã hội. Để đối phó với hiện tượng di cư do khí hậu, Chính phủ đã phát triển các chương trình hỗ trợ cho người dân tại các khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề từ thiên tai. Chính phủ đang thực hiện Đề án phát triển vùng kinh tế trọng điểm, giúp chuyển đổi sinh kế cho các cộng đồng dễ bị tổn thương do BĐKH. Một trong những ví dụ điển hình là các dự án tại Đồng bằng sông Cửu Long, nơi hỗ trợ người dân chuyển đổi từ canh tác truyền thống sang các mô hình sản xuất có khả năng chống chịu cao hơn với BĐKH (WB, 2022). Bên cạnh đó, Chính phủ đã phát triển các chương trình phát triển kỹ năng và nghề nghiệp cho các nhóm dân cư có nguy cơ mất sinh kế do thiên tai, đồng thời tăng cường năng lực cho các cộng đồng địa phương để họ có thể tự ứng phó và thích nghi với các điều kiện khí hậu thay đổi.
Nghiên cứu thành công vaccine giúp ức chế nhiều loại ung thư
Các nhà khoa học đã thành công tạo ra loại vaccine mới hoạt động dựa trên phương thức kích hoạt phản ứng miễn dịch cơ thể.