Nhập khẩu sợi bông thấp phản ánh 'sự suy giảm toàn cầu' về nhu cầu quần áo

Sự thiếu hụt trong nhập khẩu sợi của Trung Quốc trong năm nay tương đương với khoảng 3,5 triệu kiện xơ bông và nước này đã thực sự xuất khẩu sợi sang Ấn Độ – một sự phát triển 'chưa từng có'.

Nhập khẩu sợi bông vào Trung Quốc trong năm nay đã giảm xuống mức thấp nhất trong một thập kỷ, khiến các nước xuất khẩu như Ấn Độ phải tìm kiếm các điểm đến thay thế.

Trung Quốc là nhà nhập khẩu sợi bông lớn nhất thế giới từ các nước như Ấn Độ, Việt Nam, Pakistan và Uzbekistan, vì các nhà máy kéo sợi của chính họ không sản xuất đủ để cung cấp cho ngành dệt may.

Tuy nhiên, theo dữ liệu hải quan Trung Quốc, giá trị nhập khẩu sợi bông của Trung Quốc đã giảm 33,2% trong 9 tháng đầu năm nay xuống còn 2,8 tỷ USD, từ mức 4,3 tỷ USD cùng kỳ năm ngoái.

Theo Manish Daga, giám đốc điều hành của công ty tư vấn bông CottonGuru ở Ấn Độ, việc mất một lượng lớn đơn đặt hàng từ Trung Quốc phản ánh "sự suy giảm nhu cầu hàng may mặc trên toàn cầu".

Daga cho biết: "Thị trường quần áo và hàng may mặc không hoạt động tốt. "Đó là lý do tại sao nhập khẩu sợi của Trung Quốc đã giảm đáng kể".

Ông nói: "Trong một động thái "chưa từng có" trong năm nay, Trung Quốc đã thực sự xuất khẩu sợi sang Ấn Độ.

"Giá bông của Trung Quốc thấp hơn của Ấn Độ, điều hiếm khi xảy ra trước đây", Daga lưu ý. "Đó là lý do sợi hiện đang được nhập khẩu vào Ấn Độ hơn là xuất khẩu từ Ấn Độ".

Theo một báo cáo được Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố vào tuần trước, sự thiếu hụt trong nhập khẩu sợi của Trung Quốc trong năm nay tương đương với 3,5 triệu kiện xơ bông.

Nhập khẩu sợi bông thấp phản ánh 'sự suy giảm toàn cầu' về nhu cầu quần áo - Ảnh 1.

Một công nhân ở Bangladesh đang phơi sợi bông mới nhuộm dưới ánh mặt trời trong tuần này. Đất nước này đã chứng kiến sự gia tăng lớn trong các đơn đặt hàng quần áo từ Mỹ. Ảnh: DPA

Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chiếm hơn 30% xuất khẩu hàng may mặc toàn cầu và những người mua chính của nó là Liên minh châu Âu, Mỹ, Nhật Bản và các quốc gia thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.

Tuy nhiên, với cuộc xung đột giữa Nga-Ukraina, giá nhiên liệu và nguyên liệu thô đã tăng lên đáng kể.

Lạm phát hàng năm ở Liên minh châu Âu ở mức 10,9% trong tháng 9 và do chi phí cho các nhà sản xuất hàng may mặc và nhà bán lẻ tăng lên, người tiêu dùng đang chi tiêu ít hơn và doanh số bán lẻ trên khắp châu Âu giảm.

Báo cáo nông nghiệp của Mỹ cho biết doanh số bán hàng may mặc trong nước và xuất khẩu sản phẩm bông của Trung Quốc đều giảm 5% từ tháng 1 đến tháng 9, phản ánh nhu cầu đối với hàng may mặc của nước này đang giảm.

Báo cáo cũng cho rằng nhập khẩu sợi của Trung Quốc giảm là do chính sách nghiêm ngặt không có Covid của nước này khiến nhiều thành phố và quận bị phong tỏa, làm gián đoạn sản xuất và làm giảm nhu cầu trong nước.

"Có sự không chắc chắn giữa các nhà sản xuất ở Trung Quốc," Daga nói. "Đó là lý do tại sao họ đã giảm mức tiêu thụ sợi. Họ không xây dựng hàng tồn kho vì họ không biết khi nào lệnh phong tỏa sẽ được áp đặt trở lại".

Báo cáo cho biết các chính sách ngoại thương, đặc biệt là của Mỹ, cấm nhập khẩu tất cả các sản phẩm làm từ bông Tân Cương, cũng đóng một vai trò nào đó, khi các thương hiệu chuyển sang đảm bảo rằng chuỗi cung ứng của họ tuân thủ.

Shahidullah Azim, phó chủ tịch Hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc Bangladesh, nói với Post: "Đơn đặt hàng đến Mỹ đã tăng lên".

Theo Textile Today, một tạp chí may mặc ở Bangladesh, nước này cũng chứng kiến giá trị hàng may mặc xuất khẩu sang Mỹ tăng 51,5% so với cùng kỳ năm ngoái trong năm tài chính kết thúc vào tháng 6.

Số liệu hải quan sơ bộ tại Việt Nam cho thấy xuất khẩu xơ và sợi sang Trung Quốc trong tháng 10 chỉ đạt 51.900 tấn, giảm 33,3% so với cùng kỳ năm ngoái, theo Hiệp hội Bông sợi Việt Nam.

Daga cho biết Ấn Độ thường xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn sợi mỗi năm, trong đó 60-70% sẽ được chuyển trực tiếp hoặc gián tiếp sang Trung Quốc. Tuy nhiên, các đơn đặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc giảm đã buộc các nhà xuất khẩu Ấn Độ phải tìm kiếm thị trường thay thế.

Alkesh Gangani, giám đốc điều hành của công ty xuất khẩu sợi bông Niva Exports cho biết: "Trung Quốc là khách hàng chính của chúng tôi, nhưng hiện tại… chúng tôi đã bắt đầu bán nhiều sợi hơn cho các nhà máy trong nước và các quốc gia như Bangladesh cũng như các thị trường ở Châu Phi và Châu Âu.

Doanh số bán hàng của Niva sang Trung Quốc trong năm nay chưa bằng một nửa so với 1.000 tấn được đặt hàng vào năm ngoái.

Các nhà xuất khẩu cũng chỉ ra những lo ngại dai dẳng về hậu cần do chính sách không có Covid của Trung Quốc.

Nhập khẩu sợi bông thấp phản ánh 'sự suy giảm toàn cầu' về nhu cầu quần áo - Ảnh 3.

Arun Dwivedi, chủ sở hữu của Charun Enterprise, một nhà xuất khẩu bông hữu cơ của Ấn Độ, cho biết: "Thông thường, các container của chúng tôi bị dừng lại và không có độ tin cậy. "Thời gian vận chuyển dài hơn",

Ông nói, thông thường sẽ mất 25-35 ngày, nhưng những hạn chế về virus corona và tình trạng thiếu container đã khiến chuyến đi kéo dài gấp đôi.

Dwivedi cho biết công ty của ông đã vận chuyển 25.000 kiện bông sang Trung Quốc vào cuối năm ngoái, nhưng mùa này không có hàng xuất khẩu.

Chỉ ra xu hướng thay đổi trong sản xuất hàng may mặc, một báo cáo trước đó của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ từ tháng 8 cho biết: "Vai trò nhập khẩu bông của Trung Quốc dường như đã đạt đến đỉnh điểm, trong khi các quốc gia khác đang tăng tỷ trọng nhập khẩu".

Báo cáo dự đoán rằng đến năm 2030, Việt Nam, Pakistan, Indonesia, Bangladesh và Thổ Nhĩ Kỳ sẽ chiếm 47% lượng bông nhập khẩu của thế giới.

Trung Quốc, chiếm hơn 50% tổng lượng bông nhập khẩu vào thời kỳ đỉnh cao năm 2012-2013, đã chứng kiến con số đó giảm xuống 26% vào năm ngoái và có thể giảm xuống khoảng 24% vào năm 2030 do chi phí sản xuất tăng và theo báo cáo, việc sử dụng sợi tổng hợp ngày càng tăng.

"Xu hướng này cũng phản ánh các kế hoạch chiến lược được các nhà hoạch định Trung Quốc tán thành, bao gồm chiến lược 'mở cửa chất lượng cao' và kiểu Sáng kiến Vành đai và Con đường, là những phản ứng đối với nền kinh tế đang thay đổi của ngành," báo cáo cho biết thêm.

LAN ANH