Kinh tế thế giới vẫn đối mặt với nhiều rủi ro trong năm 2023

Nền kinh tế thế giới đang đối mặt với rủi ro và cơ hội trong năm tới từ việc ngân hàng trung ương các nước tăng lãi suất cho đến việc Trung Quốc mở cửa trở lại.

Nền kinh tế toàn cầu đã trải qua một năm đầy sóng gió vào năm 2022.

Đó là khi cuộc chiến ở Ukraina và các biện pháp kiểm soát dịch theo kiểu "không COVID" cứng rắn của Trung Quốc đã gây ra sự hỗn loạn mới cho chuỗi cung ứng toàn cầu. Giá lương thực và năng lượng tăng vọt khiến lạm phát ở nhiều nền kinh tế đạt mức cao nhất trong 4 thập kỷ qua.

Sau một năm đầy biến động, nền kinh tế toàn cầu bước sang năm 2023 trong điều kiện cũng không mấy khả quan.

Cuộc chiến của Tổng thống Nga Vladimir Putin ở Ukraina tiếp tục khuấy động thị trường năng lượng và thực phẩm, trong khi lãi suất tăng có nguy cơ bóp nghẹt quá trình phục hồi của các nền kinh tế sau đại dịch vốn đang rất mong manh.

Kinh tế thế giới vẫn đối mặt với nhiều rủi ro trong năm 2023   - Ảnh 1.

Kinh tế thế giới vẫn đối mặt với nhiều rủi ro trong năm 2023.

Về mặt tích cực, việc Trung Quốc mở cửa trở lại sau ba năm thực hiện các biện pháp kiềm chế đại dịch nghiêm ngặt đã mang lại niềm tin cho sự phục hồi toàn cầu mặc dù vẫn còn đó những lo ngại cho rằng sự lây lan của virus có thể làm phát sinh nhiều biến thể nguy hiểm hơn .

Lạm phát dự kiến sẽ giảm trên toàn cầu vào năm 2023 nhưng vẫn ở mức cao.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán lạm phát toàn cầu sẽ đạt 6,5% vào năm tới, giảm từ mức 8,8% vào năm 2022. Đối với các nền kinh tế đang phát triển lạm phát dự kiến giảm xuống 8,1% vào năm 2023.

Alexander Tziamalis, giảng viên kinh tế cấp cao tại Đại học Sheffield Hallam, cho biết: "Có khả năng lạm phát sẽ vẫn cao hơn mức 2% mà hầu hết các ngân hàng trung ương phương Tây đã đặt làm chuẩn".

"Năng lượng và nguyên liệu thô sẽ vẫn còn đắt đỏ trong một thời gian. Quá trình toàn cầu hóa sẽ dẫn đến hàng nhập khẩu đắt đỏ hơn, tình trạng thiếu lao động ở nhiều nước phương Tây dẫn đến giá sản xuất cao hơn và các biện pháp chuyển đổi xanh sẽ khiến chúng ta phải đối mặt với lạm phát cao hơn mức mà chúng ta đã từng trải qua trong suốt những năm 2010, ông nói thêm.

Mặc dù tốc độ lạm phát dự kiến sẽ giảm vào năm 2023, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế chắc chắn sẽ chậm lại cùng với việc lãi suất tăng.

IMF đã ước tính rằng nền kinh tế toàn cầu sẽ chỉ tăng trưởng 2,7% vào năm 2023, giảm từ mức 3,2% vào năm 2022. Trong khi đó, Tổ chức hợp tác và phát triển quốc tế (OECD) đã dự đoán một hiệu suất kém cao hơn trong năm nay là tăng trưởng 2,2%, so với 3,1% vào năm 2022.

Nhiều nhà kinh tế bi quan hơn và tin rằng suy thoái kinh tế toàn cầu có thể xảy ra vào năm 2023, chỉ ba năm sau cuộc suy thoái do đại dịch gây ra.

Trong một bài báo vào tháng trước, Zanny Minton Beddoes, Tổng biên tập của The Economist, đã vẽ nên một bức tranh ảm đạm về nền kinh tế thế giới được tóm tắt bằng tiêu đề rõ ràng của bài báo: "Tại sao suy thoái kinh tế toàn cầu là không thể tránh khỏi vào năm 2023".

Ngay cả khi nền kinh tế toàn cầu không rơi vào suy thoái về mặt kỹ thuật - được định nghĩa là hai quý tăng trưởng âm liên tiếp - nhà kinh tế trưởng của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) gần đây đã cảnh báo rằng năm 2023 có thể vẫn giống như một năm trước đó đối với nhiều người do sự kết hợp của nhiều vân đề, trong đó có việc tăng trưởng chậm lại, giá cả tăng cao và xu hướng tăng lãi suất.

"Ba nền kinh tế lớn nhất là Mỹ, Trung Quốc và khu vực đồng euro sẽ tiếp tục chững lại", Pierre-Olivier Gourinchas cho biết vào tháng 10. "Tóm lại, điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến và đối với nhiều người, năm 2023 sẽ giống như một cuộc suy thoái".

Sau gần ba năm phong tỏa, xét nghiệm hàng loạt và đóng cửa biên giới, Trung Quốc hồi đầu tháng này đã bắt đầu quá trình dỡ bỏ chính sách "không COVID".

Việc mở cửa trở lại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - vốn đã chậm lại đáng kể trong năm ngoái - sẽ tạo động lực mới cho sự phục hồi toàn cầu.

Sự phục hồi của nhu cầu người tiêu dùng Trung Quốc sẽ tạo động lực cho các nhà xuất khẩu lớn như Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Singapore, trong khi việc dỡ bỏ các hạn chế sẽ mang lại sự phục hồi cho các thương hiệu toàn cầu từ Apple đến Tesla vốn liên tục bị gián đoạn trong điều kiện "không có COVID".

Đồng thời, việc Trung Quốc nhanh chóng quay lưng lại với chính sách "không có COVID"sẽ mang theo những rủi ro đáng kể.

Trong khi Bắc Kinh ngừng công bố số liệu thống kê về COVID, các bệnh viện trên khắp Trung Quốc tràn ngập người bệnh, trong khi các nhà xác và lò hỏa táng báo cáo đã quá tải với lượng thi thể đổ về.

Một số chuyên gia y tế đã ước tính rằng Trung Quốc có thể chứng kiến tới 2 triệu ca tử vong trong những tháng tới.

Với việc virus lây lan nhanh chóng trong dân số khổng lồ của Trung Quốc, một số chuyên gia y tế cũng bày tỏ lo ngại về sự xuất hiện của các biến thể mới và nguy hiểm hơn.

Bất chấp sự tàn phá kinh tế do COVID-19 và các đợt phong tỏa, các vụ phá sản trên thực tế đã giảm ở nhiều quốc gia vào năm 2020 và 2021 do sự kết hợp giữa các thỏa thuận của các chủ nợ và gói kích thích lớn của chính phủ.

Ví dụ, tại Hoa Kỳ, 16.140 doanh nghiệp đã nộp đơn xin phá sản vào năm 2021 và 22.391 doanh nghiệp đã làm như vậy vào năm 2020, so với 22.910 vào năm 2019.

Xu hướng đó dự kiến sẽ đảo ngược vào năm 2023, tức các vụ phá sản sẽ tăng trong bối cảnh giá năng lượng và lãi suất tăng cao.

Allianz Trade đã ước tính rằng tỷ lệ phá sản trên toàn cầu tăng hơn 10% vào năm 2022 và 19% vào năm 2023.

Tziamalis cho biết: "Đại dịch COVID đã buộc nhiều doanh nghiệp phải vay các khoản vay lớn, làm trầm trọng thêm tình trạng ngày càng phụ thuộc vào các khoản vay để bù đắp cho sự mất mát về khả năng cạnh tranh do toàn cầu hóa".

"Sự tồn tại của các doanh nghiệp mắc nợ cao hiện đang bị đặt dấu hỏi khi họ phải đối mặt với một cơn bão lãi suất cao hơn, giá năng lượng cao hơn, nguyên liệu thô đắt hơn và chi tiêu tiêu dùng ít hơn của người tiêu dùng… Tziamalis cho biết thêm.

Những nỗ lực nhằm đẩy lùi quá trình toàn cầu hóa đã tăng tốc trong năm nay và có vẻ sẽ tiếp tục tăng tốc vào năm 2023.

Kể từ khi bắt đầu dưới thời chính quyền cựu TT Trump, cuộc chiến thương mại và công nghệ Mỹ-Trung ngày càng sâu sắc dưới thời Tổng thống Mỹ Joe Biden.

Vào tháng 8, ông Biden đã ký Đạo luật Khoa học và CHIPS ngăn chặn việc xuất khẩu chip và thiết bị sản xuất tiên tiến sang Trung Quốc - một động thái nhằm kìm hãm sự phát triển của ngành công nghiệp bán dẫn Trung Quốc và thúc đẩy khả năng tự cung tự cấp trong lĩnh vực sản xuất chip.

Việc thông qua luật này chỉ là một ví dụ mới nhất về xu hướng ngày càng tăng từ tự do hóa thương mại và tự do hóa kinh tế sang chủ nghĩa bảo hộ và khả năng tự cung tự cấp cao hơn, đặc biệt là trong các ngành quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia.

Trong một bài phát biểu hồi đầu tháng này, Morris Chang, người sáng lập Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC), nhà sản xuất chip lớn nhất thế giới, nói rằng toàn cầu hóa và thương mại tự do "gần như đã chết".

"Phương Tây, đặc biệt là Mỹ, ngày càng bị đe dọa bởi quỹ đạo kinh tế của Trung Quốc và đáp trả bằng áp lực kinh tế và quân sự đối với siêu cường mới nổi", Tziamalis nói.

"Một cuộc chiến tranh toàn diện về Đài Loan rất khó xảy ra nhưng hàng nhập khẩu đắt đỏ hơn và tăng trưởng chậm hơn đối với tất cả các quốc gia tham gia vào cuộc chiến thương mại này là điều gần như chắc chắn".

PV