Nhà sưu tập Phạm Đức Sĩ: Riêng một con đường

Cùng khám phá “kho báu” của Sĩ Mộc, đó cũng là cách tìm hiểu, trở về với văn hóa, lịch sử từ cách đây 4000 năm.

Bạn bè gọi anh là Sĩ Mộc, bởi anh có tiệm đóng khung tranh cho các họa sĩ tại cổng trường Mỹ thuật Yết Kiêu, ngoài ra, anh còn là một nhà sưu tập với nhiều hiện vật cổ, đồ đá, đồ gốm, tranh thờ. Cùng khám phá “kho báu” của Sĩ Mộc, đó cũng là cách tìm hiểu, trở về với văn hóa, lịch sử từ cách đây 4000 năm.

Nhà sưu tập Phạm Đức Sĩ tại triển lãm
Nhà sưu tập Phạm Đức Sĩ tại triển lãm "Riêng một con đường".

Tôi hợp với sự thô mộc của gốm

Anh bắt đầu sưu tập những món này một cách có ý thức từ bao giờ?

Cách đây 25 năm, từ năm 1999, 3 người bạn chúng tôi là tôi và họa sĩ Nguyễn Linh, Trần Hạnh, đều có chung niềm đam mê sưu tầm nghệ thuật và cổ vật. Ngồi với nhau nhiều buổi, chúng tôi nghĩ, nếu cứ sưu tập chồng chéo nhau, mà chỉ mỗi người có vài món, thì rồi cũng không đạt được gì, thế nên sau khi bàn bạc, mỗi người sẽ tự quyết định lựa chọn những đường hướng thích hợp để phát triển bởi như vậy mới giúp mỗi người có được thế mạnh và làm dày thêm bộ sưu tập của mình.

Trần Hạnh thì sưu tập đồ gốm Hoa lam, Nguyễn Linh sưu tập đồ gốm Hoa nâu, Phạm Đức Sĩ sưu tập gốm tiền sử cho đến thời Hán Đường và tranh dân gian Việt Nam. Mỗi người một hướng tùy theo tình cảm và khả năng của mình, nhưng 25 năm một chặng đường, có thể nói, từ lúc chơi chỉ là chơi, cho tới chơi có ý thức, ba anh em đã phát triển rất mạnh các bộ sưu tập cá nhân của mình. 

Anh có thể giới thiệu qua những đồ gốm anh đã sưu tập có gì đặc biệt mà để lại nhiều dấu ấn cho anh?

Tôi nghĩ mỗi thứ tới với tôi, hoặc tôi tìm tới, đều là chữ duyên nên đồ nào tôi cũng thích, cũng thấy đặc biệt. Với các hiện vật gốm tôi đang có, lâu đời nhất là gốm Hoa Lộc có từ thời kỳ đồ đá mới, khoảng từ 5000 đến 4000 năm với những dáng thô và dày, hoa văn riêng biệt. Tiếp là gốm Phùng Nguyên từ thời đầu Hùng Vương, gốm Đồng Đậu, Gò Mun… có từ 4000-2000 năm trước. 

Những đồ gốm có tạo hình độc đáo.
Những đồ gốm có tạo hình độc đáo.

Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa đồ gốm Hoa Lộc thường ở vùng biển Thanh Hóa, với các chất liệu cứng mịn và thô xốp, làm từ đất sét pha cát lẫn ít tạp chất. Gốm Hoa Lộc phong phú về loại hình và tạo hình với miệng đa giác, cong khum, loe võng, trang trí hình thú, hoa văn mang tính hình học, có tính đối xứng chặt chẽ. Tôi đọc thấy các nhà nghiên cứu nói rằng, gốm thời Hoa Lộc mang tính phóng khoáng, thể hiện tư duy người vùng biển, những con người quen với sự mênh mông của biển cả… Nên càng sưu tập, tôi càng thấy hợp với những nét phóng khoáng thô mộc, giản dị của gốm Hoa Lộc. 

Ở đây tôi thấy có một số hiện vật đồ đá, anh có thể giới thiệu đôi chút cho độc giả?

Đây là một số công cụ lao động bằng đá, đồ trang sức bằng đá từ thời kỳ đồ đá mới đến thời kỳ đồ đồng và đồ sắt Đông Sơn. Chúng là rìu, đục, chày đập vỏ cây, khuyên tai, vòng tay, vật đeo trên cổ như những biểu tượng tín ngưỡng nguyên thủy. 

Đây mới chỉ là một phần trong bộ sưu tập phong phú của anh.
Đây mới chỉ là một phần trong bộ sưu tập phong phú của anh.

Tôi có anh bạn nhà bên Bắc Ninh, miền đất anh ở theo lịch sử, chính là Thuận Thành, Luy Lâu cũ. Ở nơi này theo thư tịch cổ của Việt Nam cùng các khảo cứu thực địa, họ đã xác định Luy Lâu (Liên Lâu) và Long Biên là hai huyện lớn thuộc quận Giao Chỉ, sau đổi là Giao Châu trong thời kỳ Bắc thuộc.

Trị sở của quận Giao Chỉ thường đóng ở hai huyện này tới đầu thế kỷ 9 mới chuyển về Tống Bình, Đại La (tức Thăng Long-Hà Nội sau này). Vị trí của thành cổ Long Biên và cả Luy Lâu đều ở trên địa bàn Bắc Ninh. Chính vì thế ở nơi này có rất nhiều gò nhà mồ Hán xưa, sau này khi xây dựng hoặc làm ruộng bà con đào phải và từ đó mà có nhiều đồ cổ vật và nhà sưu tập may mắn có được.

Một số hiện vật khác được những người khai thác cát trên các dòng sông như sông Lô, sông Cầu thu nhận được và cũng may mắn đến tay nhà sưu tập. Về căn bản, đồ đào và đồ vớt từ sông nước rất khác nhau, do quá trình phong hóa và môi trường khác nhau. Về tính xác thực và đánh giá niên đại của các hiện vật đồ đá này, tôi rất mong các nhà chuyên môn, khảo cổ học tham gia góp ý và chỉ giáo. 

Trong số các hiện vật, cổ vật mà anh sưu tập được, có cổ vật nào mà anh có nhiều… “nỗi niềm” muốn chia sẻ nhất?

Có hai món: Một đó là cái mà tôi tạm gọi là cái đèn cổ, gọi là cái đèn thôi, nhưng tôi và một số bạn bè nghiên cứu bảo đây chỉ là giả thuyết. Giả thuyết đó là cái đèn có 3 chạc, hai chạc chĩa ra hai bên, một chạc ở giữa, phía 2 đầu có trang trí hình đầu rồng. Theo thông tin tôi được biết, món này người ta khai quật được ở vị trí gần đền thờ Sĩ Nhiếp.

Bộ sưu tập phong phú của anh có nhiều đồ quý hiếm.
Bộ sưu tập phong phú của anh có nhiều đồ quý hiếm.

Theo quan điểm của tôi, những món có rồng mạ vàng thì thường là biểu tượng uy quyền của vua chúa. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Việt, có một nhà nghiên cứu đã mô tả cỗ xe ngựa của Sĩ Nhiếp, trong đó có mô tả cái trượng uy quyền mà tôi đang đặt giả thuyết cái “đèn” này chính là cái đầu của chiếc trượng đó. Nhưng do biểu tượng rồng là biểu tượng của quân vương, nên theo như tôi đọc đâu đó trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết: “Vương (Sĩ Nhiếp) độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương”.

Cho dù thế nào đi nữa, dù thông tin dù là giả định, nhưng tôi vẫn thấy vô cùng nâng niu và tôn trọng “chiếc đèn” kỳ lạ này. Bản thân món đồ nó tự toát lên giá trị tùy người nhìn nhận, còn tất cả chúng ta đây nói gì, đều là phỏng đoán hết. 

Món thứ hai, đó là một pho tượng đầu người thời Trần. Đây là đồ ở dưới sông và do bãi lở bên sông Cầu, Bắc Giang. Khi chưa mua thì ông đòi giá cao. Sau không bán được ông cho lên tầng 3 thờ. Sau tỉ tê, tôi đã “đàm phán” thành công. Mừng hết biết. Tiến sĩ Nguyễn Việt - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông Nam Á cho biết ông chưa bao giờ nhìn thấy cái đầu thời Trần to như thế, làm theo phong cách như thế là một sự đặc biệt.

Tranh thờ là văn hóa cổ của người Việt

Vì sao anh lại đặt tên cho triển lãm lần này là “Riêng một con đường”?

Thực ra lúc đầu tôi lấy tên là “My way” (đời tôi) nhưng một người bạn bảo thế là chung chung quá, và anh bảo tôi: “Riêng một con đường” đi.  Ông là ông, Sĩ Mộc à. Tôi thì cũng hơi ngại, nhưng thôi, kệ đi. Vậy là “Riêng một con đường”. Lúc nãy bạn có hỏi tôi có đi nơi này nơi kia, hội nọ hội kia không, thì tôi thú thật là tôi không chơi hội nhóm, cũng không có tụ tập nhiều nơi đông người, đúng là tôi chỉ có vài anh bạn với nhau, nhiều khi lủi thủi thôi.

Việc sưu tập này cũng thế, có mấy người quan tâm tới tranh thờ đâu, trừ bác Phan Ngọc Khuê, thế nên tôi quyết đã chơi, phải chơi có hệ thống, chơi theo chiều sâu. Tôi cố gắng sưu tập từng bộ tranh thờ, sao cho bộ sưu tập của mình thật phong phú, đa dạng, có chủ đề. Vậy nên, nói riêng một con đường, thì cũng có lẽ là vậy.

Bộ tranh thờ của người Dao đỏ.
Bộ tranh thờ của người Dao đỏ.

Anh có thể chia sẻ đôi chút về dòng tranh thờ dân gian anh đang theo đuổi?

Tranh dân gian chính là các tác phẩm gắn liền với lịch sử văn hóa dân tộc và chúng thể hiện từng thời kỳ, văn hóa vùng miền. Việt Nam có 12 dòng tranh dân gian, từ tranh cổ và tới những tranh còn hiện hữu ngày nay. Tôi tập trung đi vào tranh thờ. Đây không phải dạng tranh phổ biến, không phải dòng tranh Tết như Đông Hồ, Kim Hoàng mà Tết người đồng bằng Bắc Bộ hay mua treo trang trí, mà là tranh thờ, tranh của các ông thầy cúng.

Tranh của các ông thầy cúng sử dụng, vậy những tranh này có gì đặc biệt?

Nhân duyên từ một khách hàng của tôi đem ra cửa hàng để bồi một chiếc mặt nạ của người Dao đỏ, tôi tìm hiểu thì mới biết những người dân tộc thường có tranh thờ và dòng tranh thờ. Càng tìm hiểu sâu, tôi càng “mê”, vậy nên tôi quyết định sưu tập, bén duyên từ đấy.

Trước tiên, tôi thường tới làng Xà Kiều, Thanh Oai, Hà Tây cũ. Ở đó có nhiều người chuyên đi gom tranh và đồ cũ của người dân tộc, tôi có mua thêm ở Mã Mây từ một số cửa hàng. Trong Thanh Oai họ chuyển 80% qua đấy. Dòng tranh thờ chủ yếu có nguồn gốc từ các đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc mang tính chất tâm linh tín ngưỡng của riêng dân tộc ấy.

Tranh thờ hình thành từ cội nguồn văn hóa, phong tục, tập quán của riêng họ, mỗi dân tộc có một dòng tranh thờ khác nhau từ nét vẽ, màu sắc, số lượng, kích cỡ, nội dung và cách thể hiện trong tranh. Tranh thờ rất phong phú ở các vùng núi phía Bắc như dân tộc Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu, Cao Lan… và được các thầy cúng sử dụng trong việc ma chay, cúng lễ và cả lễ hội. 

Tranh thờ trong bộ Tam thế
Tranh thờ trong bộ Tam thế

Tranh thờ mang giá trị thẩm mỹ rất đặc trưng, thường được vẽ bằng bột màu trên giấy, có thể là giấy dó, giấy bồi, hoặc loại giấy riêng do họ tự làm. Bố cục và kích cỡ của tranh thờ cũng có đặc trưng riêng, thường là có theo bộ, gồm từ 3 - 12 bức dài ngắn khác nhau. Có bức rất đặc biệt, có thể dài từ 3m đến 12m nhưng bề rộng lại hẹp từ 20cm. Màu sắc được thể hiện rực rỡ và dùng màu bột tự nhiên như từ đá sỏi son, lá chàm, hoa hòe, than tre, bột vỏ sò vỏ điệp, vàng lá, các màu từ lá cây, quả… Màu sắc và cách vẽ ước lệ, biểu trưng…

Ngoài các vị thần linh, tranh thờ của người dân tộc thường như một câu chuyện được kể lại bằng tranh. Trong đó có rất nhiều tranh miêu tả các bước từ khi người sống cho đến khi chết, lên đến cõi trên như thế nào, hoặc xuống địa ngục như nào. Ngoài ra còn có một số tranh thờ của những khu vực đồng bằng, bao gồm các tranh thờ cúng thần linh bảo trợ cho gia đình làng xã, các nhân vật huyền thoại, lịch sử, tranh thờ đạo Giáo, đạo Mẫu và một số tranh dân gian hóa như Thập Điện, Tam Thanh theo phong cách dân gian từ nghìn đời còn lưu truyền. 

Bộ tranh nào anh quý nhất, đặc biệt nhất, hoặc có giá trị cao?

Quý thì tất cả mọi thứ đều như nhau, cái gì mình cũng tôn trọng. Bộ tranh thờ Dao đỏ, khá đặc biệt vì bộ này là do người Dao đặt nghệ nhân Quảng Tây Trung Quốc vẽ. Bộ tranh thờ đó có khoảng 25-30 bức, trong đó có 16-18 tranh to, 6-8 tranh bé. Tính ra, miệt mài hơn 20 năm, tôi đã có khoảng 450 cái. Bộ Sán Dìu là có 32 tờ. Bộ Cao Lan Sán Chỉ 26 tờ, Dao Đỏ 24,25 tờ.

Về nghệ thuật thì theo tôi, bạn nào muốn tìm hiểu học đọc sách của bác Khuê, nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Khuê. Theo bác, tranh thờ của các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chỉ, Cao Lan, Giáy ngoài ý nghĩa về tôn giáo, còn có giá trị cao về nghệ thuật. Tranh thường vẽ trên giấy dó, xuyến chỉ, bằng mực tàu hoặc tô phẩm màu.

Thầy Tào (thầy cúng) ngoài việc chăm sóc tâm linh cho đồng bào, còn là những nghệ nhân dân gian trong việc vẽ và lưu trữ những mẫu tranh thờ từ đời này qua đời khác. Có những thầy Tào tuổi ngoài 70-80 tuổi vẫn có thể vẽ được những bức tranh thờ giống y những nguyên bản mẫu cổ. Bộ tranh thờ luôn được coi là đồ gia bảo, nếu không có người nối dõi, đến cuối đời thầy Tào làm lễ đưa các bức tranh thường ngày vẫn dùng cúng tế này vào hang sâu vứt bỏ. Cũng vì thế, ngày nay tranh thờ ở miền núi không còn nhiều nữa.

Nhà sưu tập Phạm Đức Sĩ: Riêng một con đường

Tôi rất thích bộ tranh thờ “Thiên Thượng Đồ”, có cảnh Diêm Vương, Địa ngục của Sán Dìu dài 12m. Họ vẽ trên giấy bằng màu tự nhiên. Bức này chỉ cách đây 60-70 năm. Còn tranh thờ “Độ linh” của người Tày, Nùng, tranh “Đại Đường Kiều” của người Dao Đỏ. Tranh thờ ở đây là hiện thân của các vị thần, các nghi thức tín ngưỡng, tổ chức tang ma, lễ cấp sắc, lễ cưới, nghi lễ gia đình, dòng họ… Bộ tranh Tứ đại Nguyên súy vẽ bốn vị thần Sấm, Mây, Mưa, Gió, có bộ Tam tượng, bộ Đại Đường quân.

Các nội dung tranh thờ thường thể hiện ngoài thần linh còn có các biểu tượng con người và vũ trụ, và các hiện tượng trong cuộc sống, các thông điệp trên các bức tranh như thiện ác, răn dạy con người nên làm các việc tốt, hoặc vẽ về việc hành trình linh hồn con người lên cõi trên như thế nào…

Cuối cùng, tôi có nghe thấy nhiều người nói, những người sưu tầm đồ cổ, đồ xưa, cũng phải có… “căn”, có “cốt”, có… “duyên”, phải không anh?

Tôi chơi khá thanh thản, nhẹ nhàng không bao giờ thấy nặng nề. Khi có nhiều người chơi đồ cổ thấy “sờ sợ”. Còn tôi tin: Nếu mình biết trân trọng, bảo vệ những văn hóa của tiền nhân, mình không làm điều gì không phải, thì mọi chuyện cũng sẽ tốt đẹp cả. Tôi chỉ “mệt”, khi có món đồ mình muốn sưu tập quá, mà cái ví tiền nó hẻo… Thế thôi.

Xin chân thành cảm ơn anh! 

Codet Hanoi (Thực hiện)

Hình ảnh con chuột trong tranh dân gian xưa

Hình ảnh con chuột trong tranh dân gian xưa

Từ xưa, chuột là đề tài khá quen thuộc trong sáng tác của các làng tranh dân gian đặc biệt là Đông Hồ và Hàng Trống..