EVN vẫn treo hơn 9.248 tỷ đồng chênh lệch tỷ giá chưa tính vào giá thành sản xuất điện

Năm 2019, EVN có lợi nhuận 523,37 tỷ đồng và vẫn còn treo hơn 9.248,52 tỷ đồng chênh lệch tỷ giá chưa hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện.

 Bộ Công Thương đã công bố kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2019 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) chiều 8/2/2021. Theo đó, tổng chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2019 là 387.828,78 tỷ đồng, bao gồm chi phí sản xuất kinh doanh của các khâu phát điện, truyền tải điện, phân phối - bán lẻ điện và phụ trợ - quản lý ngành...

Năm 2019, EVN đạt sản lượng điện thương phẩm 209,77 tỷ kWh, tăng 9% so với năm 2018. Giá bán điện thương phẩm tăng 6,9% so với 2018, bình quân là 1.851,36 đồng/kWh.  Doanh thu trong năm này là 388.355 tỷ đồng.

Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh điện năm 2019 của EVN năm 2019 lãi 523,37 tỷ đồng, tương ứng tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu năm 2019 là 0,35%.

evn-1.jpg

Tổng chi phí khâu phát điện là 309.866,81 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phát điện theo điện thương phẩm là 1.477,19 đ/kWh.

Theo Bộ Công Thương, so với năm 2018, chi phí khâu phát điện năm 2019 tăng, do một số lý do như lượng nước về hồ chứa thủy điện thấp so với năm 2018 nên lượng điện từ thủy điện năm 2019 thấp hơn năm 2018.

EVN cũng phải huy động giá cao sản lượng điện từ các nguồn điện khác như nhiệt điện than, khí và đặc biệt là dầu (ngoài các nhà máy nhiệt điện chạy dầu như Thủ Đức, Cần Thơ, Ô Môn còn phải huy động nhà máy điện tua bin khí chạy dầu), điện mặt trời cao hơn so với năm 2018...

Bên cạnh đó, tỷ giá USD bình quân năm 2019 tăng khoảng 0,97% so với năm 2018, làm tăng chi phí mua điện từ các nguồn có giá mua điện theo hợp đồng bằng USD, hoặc giá mua nhiên liệu bằng USD của một loạt nhà máy như: Thủy điện Cần Đơn, cụm nhà máy điện Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2.1, Phú Mỹ 4, Phú Mỹ 2.2, Phú Mỹ 3, Nhơn Trạch 1&2, Bà Rịa, Cà Mau 1&2).

Tỷ giá tăng cũng ảnh hưởng giá thành các nhà máy nhiệt điện than sử dụng than nhập khẩu (cụm nhà máy điện Formosa Đồng Nai, Formosa Hà Tĩnh, Duyên Hải 3, Vĩnh Tân 4) và viêc nhập khẩu điện từ Trung Quốc, Lào, các nhà máy điện gió, mặt trời.  Ngoài ra, các khoản chi phí thuế tài nguyên nước năm 2019 tăng so với năm 2018.

các số liệu cho thấy, năm 2019, tổng khoản bù giá cho chi phí sản xuất kinh doanh điện tại 8 xã, huyện đảo trên cả nước (huyện đảo Phú Quý, Côn Đảo, Trường Sa, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Lý Sơn,  Vũng Ngán và Bích Đầm)  là 300,75 tỷ đồng.

Đáng chú ý, số liệu kiểm tra cho thấy năm 2019, EVN đã hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện 2.949,52 tỷ đồng chênh lệch tỷ giá thực hiện theo hợp đồng mua bán điện của năm 2017. Nhưng vẫn còn treo một phần chênh lệch tỷ giá năm 2015, với khoảng 753,97 tỷ đồng.

Như vậy, còn khoảng hơn 9.248,52 tỷ đồng chênh lệch tỷ giá chưa được EVN hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2019.

Cụ thể các khoản chênh lệch tỷ giá chưa hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2019 bao gồm: khoảng 3.716,6 tỷ đồng phát sinh của năm 2018 sẽ được thanh toán vào năm 2019. Tuy nhiên, năm 2019, EVN không tính toán khoản này vào phương án giá điện để thanh toán cho các đơn vị phát điện.

Khoản chênh lệch tỷ giá theo hợp đồng mua bán điện phát sinh năm 2019 với số tiền khoảng 4.415,8 tỷ đồng vào chênh lệch tỷ giá thực hiện theo hợp đồng mua bán điện của các đơn vị phát điện năm 2015  còn treo với số tiền khoảng 1.117,12 tỷ đồng.

Đoàn kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2019 của EVN bao gồm đại diện Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Hội Điện lực Việt Nam, Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. 

Q.HUY